Khái niệm
Gân xương và chu vi khớp vai bị đau nhức gọi là chứng Đau vai. Vùng sau vai bị đau thường liên quan đến bả vai là lưng gọi là đau vai lưng. Đau vai ảnh hưởng đến hoạt động của chi trên, nhất là vùng khủy tay gọi là chứng đau vai và cánh tay. Vì đều có những biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đau vai, còn đau ở các bộ vị khác là do ảnh hưởng của đau vai gây nên, cho nên có thể gọi chung là chứng Đau vai.
Vì chứng Đau vai thường làm cho công năng hoạt động của chi trên bị trở ngại ở mức độ khác nhau, cố gắng hoạt động thì chi trên đau nhức kịch liệt. Trong các y thư cổ đại của đông y lấy chứng trạng đau ở vùng vai làm chủ yếu mà công năng hoạt động bình thường hoặc có ảnh hưởng mức độ nặng nhẹ khác nhau gọi là “Kiên thố (đau vai) (Châm cứu giáp ất kinh)” Đau vai lưng (Nội kinh) (Châm cứu giáp ất kinh)” Kiên tý thông” (Châm cứu giấp ất kinh), “Bắp trước vai đau” (Nội kinh). Nếu lấy công năng hoạt động bị trở ngại mà biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chi trên không cất nhắc được thì gọi là chứng Vai không cất nhắc được (Kiên bất cử – Tham khảo ở mục này) Chứng đau vai bắt đầu từ sách Nội kinh đã xếp vào loại Tý chứng. Sách Châm cứu giáp ất kinh gọi là “Kiên bối tý thông”, “Kiên thống chu tý”, “Kiên tý thông” và “Kiên tý”.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Đau vai do phong hàn: Là một chứng đau vai khá nhẹ, bệnh trình ngắn, mức độ đau cũng nhẹ, tính chất đau đơn thuần hoặc đau âm ỉ không ảnh hưởng tới công năng hoạt động của chi trên, phạm vi đau hoặc giới hạn ở cục bộ vùng vai, hoặc ảnh hưởng đến vùng sau vai ở xương bả vai hoặc ảnh hưởng đến phía trước cánh tay của chi trên, thường có cảm giác căng cứng ở cổ và lưng hoặc ở chi trên, vùng vai có cảm giác lạnh, chườm nóng hoặc xoa bóp thì giảm nhẹ, rêu lưỡi trắng, mạch Phù hoặc bình thường.
Đau vai do hàn thấp: Có chứng chu vi vùng vai và cơ bắp cục bộ đau kịch liệt, bệnh trình khá dài hoạt động công năng của khớp vai tuy bình thường nhưng vi đau nhức kịch liệt nên không dám hoạt động vì hễ hoạt động thì đau càng tăng, dằng dai lâu ngày không khỏi tạo nên trở ngại sự hoạt động của khớp vai. cảm giác ở vùng vai lạnh, sợ lạnh được ấm thì cảm giác đau có thể tạm thời giảm nhẹ nhưng chốc lát tái phát cảm giác mát lạnh vẫn như cũ. Vì đau kịch liệt thường ảnh hưởng đến giấc ngủ và sự ăn uống cũng như công tác bình thường của bệnh nhân. Thường do đau nhức kịch liệt mà vã mồ hôi, vì bệnh trình kéo dài người bệnh thường có những kiêm chứng về khí hư như: Tự ra mồ hôi, đoản hơi, không chịu được mệt nhọc, dễ cảm mạo… chất lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng, mạch Nhược hoặc Huyền Tế.
Đau vai do ứ huyết: Nếu do vấp ngã gây nên thì có bệnh sử ngoại thương rõ rệt, nếu không vấp ngã do ngoại thương mà đau vai bệnh kịch liệt tính chất đau nhói tuy đã điều trị các phép ôn kinh tán hàn, khư phong thấp và chỉ thông nhưng hiệu quả rất ít, Bệnh kẹo dài không khỏi cũng là chứng Đau vai do ứ huyết. Đau vai do vấp ngã ứ huyết có mức độ sưng trướng hoặc không sưng trướng tổn thương cục bộ do vấp ngã có điểm áp thông rõ rệt, Đau vai do ứ huyết kéo dài thì khồng sưng trướng, phạm vi đau nhức khá rộng cũng không có điểm áp thông rõ rệt. Cả hai loại trên có thể vì đau nhức mà dẫn đến hoạt động của khớp vai bị trở ngại nhẹ.
Phân tích
Chứng Đau vai do phong hàn với chứng Đau vai do hàn thấp: Đau vai do phong hàn là chứng đau vai khá nhẹ có thể gọi là “Kiên tý thống”, còn Đau vai do hàn thấp là chứng đau vai khá nặng, hơn nữa phạm vi đau vai rộng hơn so với chứng đau vai do phong hàn có thể gọi là “Kiên thống chu tý”. Nguyên nhân bệnh của hai chứng này đều do cảm nhiễm phong hàn thấp tà. Loại trên chủ yếu là cảm nhiễm tà khí phong hàn. Loại sau chủ yếu là cảm nhiễm tà khí hàn thấp, cơ chế bệnh của hai loại khác nhau, đau vai do phong hàn là do khi ra mồ hôi lại hóng gió hoặc đêm ngủ không cẩn thận bị phong hàn từ ngoài xâm phạm, tà khí ở cơ phu nên thuộc triệu chứng nông ở biểu, Nhưng người thể trạng yếu cơ bắp vệ dương không bền thường tự ra mồ hôi, dễ cảm nhiễm tà khí phong hàn mà bị đau vai. Ngũ tạng sinh thành thiên – sách Tố vân có nói: Khi nằm bị gió thổi, huyết ngưng ở cơ bắp mà thành chứng Tý” Mục Huyết tý hư lao bệnh mạch chứng tính trị – sách Kim quỹ yếu lược bảo là: “Lớp người quý phái xương yếu mà cơ bắp thịnh lại gặp thêm mệt nhọc vã mồ hôi khi nằm bất chợt bị đánh thức lại thêm nhiễm phải gió nhẹ nên mắc bệnh”. Tà khí phong hàn xâm phạm vào cơ bắp, khí huyết ở kinh lạc nhân đó mà ngưng rít không thông phát sinh Tý thống, triệu chứng đau khá nhẹ nhưng có cảm giác tê dại, Nếu thể trạng yếu, vệ dương không bền dẫn đến đau vai có thể dùng Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang gia Đương quy, Khương hoàng, Tang chi… Nếu do khí huyết bất túc cảm nhiễm tà khí phong hàn khá nặng mà đau nhức rõ rệt có thể dùng Quyên tý thang.
Chứng Đau vai do đờm thấp tuy cũng cảm nhiễm tà khí phong hàn thấp nhưng lấy cảm nhiễm tà khí hàn thấp làm chủ yếu, vả lại tà khí hàn thấp úng trệ kéo dài ở khoảng gân thịt thì chứng trạng đau nhức rõ rệt và bệnh trình khá dài, nguyên nhân thường do nằm lâu nơi ẩm lạnh hoặc sau khi ra nhiều mồ hôi lại bị ngấm nước lạnh. Chư Tý thiên – Sách Linh khu viết: “Phong hàn thấp tý ẩn náu ở khoảng ngoài thớ thịt thúc bách thành bọt, cái bọt ấy gặp lạnh thì tụ lại, tụ lại thì vùng cơ bắp nứt ra gây nên đau”. Từ Linh Thai chú giải rằng: “Trong Nội kinh không có chữ đờm chữ “bọt” ở đây tức là đờm đấy: “Bọt tức là thủy thấp mà gọi nó là đờm. Thúc bách thành đờm, đờm thấp tụ lại ở khoảng cơ bắp tràn ra cơ bắp mà tỏa nứt ra, cho nên mới đau kịch liệt gọi là chứng vai do đờm thấp, sách Nội kinh gọi chứng này là “Chu tý” Sách Châm cứu tư sinh kinh gọi là “Kiên thống chu tý” Đờm thấp ở nơi cơ bắp kéo dài không bài tiết ra, không những đau nhức kịch liệt mà làm cho khí huyết cũng hư cho nên điều trị chủ yếu nên trừ hàn thấp và bổ khí huyết cho uống Ô đầu thang gia Xương truật, Bạch truật, Phục linh, Phòng kỷ…
Chứng Đau vai do ứ huyết với chứng Đau vai do đờm thấp: Đau vai do vấp ngã ứ huyết do bệnh sử ngoại thương rõ rệt, phát bệnh đột ngột, cục bộ có thể áp thông và sưng trướng, tính chất đau phần nhiều là đau nhói ảnh hưởng đến công năng hoạt động của chi trên, điều trị chủ yếu phải hoạt huyết khư ứ, chỉ thông, có thể dùng Đào hồng Tứ vật thang gia Khương hoàng, Nhũ hương, Một dược, Thổ miết trùng… Đau vai do đờm thấp kịch liệt, bệnh trình kéo dài mà không có bệnh sử ngoại thương cục bộ cũng không bị ứ sưng rõ rệt, bệnh kéo dài điều trị không khỏi phần nhiều cũng kiêm ứ huyết biểu hiện là đau nhói, gân ở các đường kinh cứng nhắc và teo cơ, rêu lưỡi và mạch không có dấu hiệu biến hóa rõ rệt. về điều trị ngoài biện pháp trừ hàn ôn bổ khí huyết cần phối hợp thêm các thuốc trừ ứ huyết như Nhũ hương, Một dược, xuyên sơn giáp…
Chứng Đau vai y gia nhiều đời đều xếp vào phạm vi Tý chứng hoặc nguyên nhân do phong hàn hoặc nguyên nhân do đờm thấp hoặc nguyên nhân do vấp ngã ứ huyết gặp trên lâm sàng phần lớn là hàn chứng. Lúc mới bị bệnh phần nhiều là thực chứng, bệnh kéo dài là chính hư mà tà thực thường biểu hiện kiêm chứng của khí huyết và Can Thận bất túc.
Trích dẫn y văn
Trong vai nóng tức là chỉ chứng Tý thông (châm cứu giáp ất kinh – quyển 10).
Có trường hợp do thấp nhiệt gây bệnh tất phải có chứng nội nhiệt mạch Hoạt Sác mới có thể dùng thuốc thanh lương điều trị như Nhị diệu tán và Gia vị nhị diều hoàn, Đương quy niêm thông thang… Nếu trường hợp nhiệt nặng, những loại thuốc như Trừu tân ẩm cũng có thể tạm dùng (Cảnh Nhạc toàn thư).
Từ Linh Thai bàn luận dưới mục vai tay đau trong sách Lâm chứng chì nam y án có đoạn nói: “Đau cố định ở vai lưng đó là loại Trước tý phải dùng đến thuốc ngoại trị để khu trừ tà khí, chứ dùng loại thuốc sắc để điều trị khó thu được hiệu quả (Lâm chứng chỉ nan y án).