Khái niệm
Sắc mặt hồng là chỉ chứng vùng mặt có mầu đỏ hơn người bình thường, thông thường là tượng trưng do thể trạng nhiệt ở bên trong. Thiên Ngũ sắc – sách Linh khu có viết: “Lấy ngũ sắc để quy vào tạng… sắc đỏ thuộc Tâm”, lại viết: “Sắc vàng, sắc đỏ là nhiệt”, sắc mặt đỏ với nhiệt có quan hệ rất chặt chẽ cho nên trong Thương hàn luận mới đem sắc mặt hồng gọi là “Nhiệt sắc”. Lại có những ghi chép là “Diện xích”, “Diện sắc duyên duyên chính xích”, “Diện hợp xích sắc”… Sách Chứng trị chuẩn thằng – Sát sắc yếu lược thì viết: “Sắc đỏ thuộc hỏa chủ nhiệt đó là sắc của Thủ Thiếu âm Tâm kinh”.
Sắc mặt hồng có các loại đỏ khắp mặt hoặc gò má đỏ như thoa phấn khác nhau. Còn như sắc mặt đỏ bừng cục bộ sưng đau hoặc “Sắc mặt đỏ từng mảng như gấm” không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
- Sắc mặt hồng do ngoại cảm phong nhiệt: Có chứng trạng biểu hiện chủ yếu là sắc mặt hồng, phát nhiệt nhẹ mà ố hàn nặng, khát nước vã mồ hôi, họng sưng đỏ đau, ven lưỡi và đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Phù Sác.
- Sắc mặt hồng do nhiệt ở kinh Dương minh: Biểu hiện chủ yếu là sắc mặt đỏ bừng, sốt cao vã mồ hôi, không Ố hàn lại ố nhiệt, khát nước rêu lưỡi vàng ráo, mạch Hồng Đại.
- Sắc mặt hồng do nhiệt vào doanh huyết: Biểu hiện chủ yếu là đỏ hồng cả mặt, nóng nhiều về đêm, miệng khô nhưng không khát lắm, Tâm phiền mất ngủ có lúc nói sảng, bì phu nổi ban chẩn thậm chí thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, niệu huyết, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác.
- Sắc mặt hồng do âm hư nội nhiệt: Biểu hiện lâm sàng thường hai gò má đỏ hồng về buổi chiều, thể trạng gầy còm, miệng ráo họng khô, đầu choáng mất ngủ, triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế sác.
- Sắc mặt hồng do hư dương phù việt: Biểu hiện chủ yếu có chứng sắc mặt trắng mà hai gò má lại phớt hồng như thoa phấn, mình nóng lại muốn đắp áo chăn, miệng khát thích uống nước nóng, đoản hơi gấp gáp, vã mồ hôi lạnh, chân tay quyết lạnh, tiểu tiện trong, đại tiện nhão, môi lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng hoặc đen sạm mà nhuận, mạch Vi muốn tuyệt.
Phân tích
- Chứng sắc mặt hồng do ngoại cảm phong nhiệt với chứng Sắc mặt hồng do nhiệt ở kinh Dương minh: cả hai đều có chứng đỏ khắp mặt nhưng có biểu lý khác nhau, sắc mặt hồng do ngoại cảm phong nhiệt thường là do phong nhiệt xâm phạm ở biểu, Phế vệ bị ngăn trở gây nên cho nên có kiêm các chứng biểu nhiệt như: phát nhiệt ố hàn ra mồ hôi, họng sưng đỏ đau. Chứng sắc mặt hồng do nhiệt ở kinh Dương minh là do ngoại tà vào lý hóa nhiệt, nhiệt tà ở Dương minh hun đốt gây nên cho nên xuất hiện các chứng sốt cao ra mồ hôi không ố hàn lại Ô nhiệt khát nước, sắc mặt hồng do ngoại cảm phong nhiệt là Biểu chứng, sắc mặt hồng do nhiệt thịnh ở Dương minh là lý chứng “Có một phần ố hàn tức là có một phần Biểu chứng”. Cho nên chứng ố hàn ở ngoại cảm phong nhiệt sẽ là yếu điểm để chẩn đoán phân biệt với Dương minh kinh chứng, sắc mặt hồng do ngoại cảm phong nhiệt nên điều trị theo phép tân lương giải biểu chọn dùng phương Ngân kiều tán gia giảm, sắc mặt hồng do Dương minh kinh chứng điều trị theo phép thanh nhiệt sinh tân cho dùng phương Bạch hổ thang gia giảm.
- Chứng Sắc mặt hồng do nhiệt vào doanh huyết với chứng Sắc mặt hồng do nhiệt ở kinh Dương minh. Hai chứng đều là Lý nhiệt chứng do ngoại tà vào Lý. Chứng sắc mặt hồng do nhiệt vào doanh huyết là tà khí ôn nhiệt truyền vào doanh huyết là biểu hiện thứ nhất của Tâm thần bị rối loạn và nhiệt thịnh động huyết. Vì vậy xuất hiện các chứng mình nóng nặng về đêm, bì phu nổi ban chẩn, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác, thậm chí có hiện tượng xuất huyết, sắc mặt hồng do nhiệt vào doanh huyết với chứng sắc mặt hồng do Dương minh kinh chứng phân biệt khác nhau ở chỗ tình trạng nhiệt xuất hiện khác nhau về thời gian và phụ thuộc vào kiêm chứng mà khác nhau. Loại trên phát nhiên nặng về đêm, loại sau thì sốt cao kéo dài và về buổi chiều có triều nhiệt. Loại trên miệng khô nhưng không khát lắm. Loại sau thì rất khát đòi uống. Loại trên kiêm các chứng bì phu nổi ban chẩn hoặc xuất huyết, loại sau kiêm chứng ra mồ hôi nhiều hoặc táo bón. Loai trên chất lưỡi đỏ tía không rêu hoặc ít rêu, loại sau chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng ố. Loại trên mạch Tế Sác, loại sau mạch Hồng Đại hoặc Sác Thực hữu lực. sắc mặt hồng do nhiệt thúc bách doanh huyết điều trị theo phép thanh doanh lương huyết chọn dùng Thanh doanh thang hoặc Tê giác địa hoàng thang.
- Chứng Sắc mặt hồng do âm hư nội nhiệt với chứng Sắc mặt hồng do hư dương phù việt: Cả hai đều là Hư chứng nhưng cơ chế bệnh và biểu hiện lâm sàng khác nhau, sắc mặt hồng do âm hư nội nhiệt là vì âm hư không chế nổi dương, hư hỏa bốc lên dẫn đến chứng Hư nhiệt cho nên biểu hiện là gò má đỏ, hơn nữa còn xuất hiện chứng âm hư dương thịnh về buổi chiều kiêm các chứng triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Sác vô lực.
Sắc mặt hồng do hư dương phù việt có đặc điểm là hai gò má phớt hồng như thoa phân. Nói chung đều là loại mắc bệnh lâu dài chính khí đã suy, dương hư mà âm thịnh, âm thịnh cách dương, hư dương nổi lên mà gây nên, vì thế gò má đỏ chỉ như thoa một lớp phấn dầu nông nổi ở lớp da và có kiêm các chứng dương khí muốn thoát như: đoản hơi thở gấp, vã mồ hôi, chân tay lạnh, mạch Vi muốn Tuyệt… Chính như thiên Ngũ sắc – sách Linh khu có viết: “Sắc đỏ xuất hiện ở hai gò má lớn như ngón tay cái thì bệnh tuy có thấy bớt nhưng sẽ đột tử”. Chứng sắc mặt hồng do âm hư nội nhiệt điều trị nên dùng phép tư âm liễm dương cho uống Đô khí hoàn. Chứng sắc mặt hồng do hư dương phù việt điều trị theo phép ức âm hồi dương thông đạt cả trong và ngoài, chọn dùng phương Thông mạch Tứ nghịch thang như mục Biện Thiếu âm bệnh mạch chứng tính trị – sách Thương hàn luận có viết: “Thiếu âm bệnh ỉa chảy ra nguyên đồ ăn, lý hàn ngoại nhiệt chân tay quyết nghịch mạch Vi muốn tuyệt mình lại không ố hàn, người bệnh sắc mặt đỏ hoặc đau bụng, hoặc nôn khan hoặc đạu họng hoặc ỉa chảy, mạch không xuất hiện, Thông mạch Tứ nghịch thang chủ chữa bệnh ấy”.
Tóm lại, chứng sắc mặt hồng có phân biệt biểu lý hư thực hàn nhiệt khác nhau, sắc mặt hồng lấy màu sắc đỏ và tươi nhuận hàm xúc là tốt, đỏ mà bộc lộ khô khan là không có Vị khí, như Ngũ tạng sinh thành thiên – Sách Tố vấn có viết: “Đỏ như miếng tiết thì chết… đỏ như mào gà thì sống”. Thiên Mạch yếu tinh vi luận – Sách Tố vấn cũng viết: “Đỏ phải như lụa bọc Chu sa không được như hòn son”. Vì thế biện chứng sắc mặt hồng trên lâm sàng phải kết hợp chặt chẽ với đặc điểm chứng trạng toàn thân mà xem xét phán đoán tiên lượng.
Trích dẫn y văn
- Can nhiệt bệnh má bên trái đỏ trước, Tâm nhiệt bệnh mặt đỏ trước, Tỳ nhiệt bệnh mũi đỏ trước, Phế nhiệt bệnh má bên phải đỏ trước, Thận nhiệt bệnh hai bên mép đỏ trước (Tố vấn – Thích nhiệt luận).
- Sắc trắng là vong huyết, nếu lại có lúc phớt đỏ thì chết (Kim quỹ yếu lược – Tặng phủ kinh lạc tiên hậu bệnh mạch chứng tính trị).
- Phế bệnh thấy mầu đỏ là Tâm hỏa hình kim thuộc chứng khó chữa (Tứ chẩn quyết vi – Vọng chẩn).
Chứng phong ôn mình nóng tự ra mồ hôi, mặt đỏ, tinh thần mê man mình nặng khó xoay chuyển, ngủ nhiều, mũi khò khè, khó phát âm, mạch Sác, đó là Ôn tà thúc ép Dương minh ở trong, tinh dịch bị cưỡng đoạt, thần cơ không vận chuyển, cho uống các loại Thạch cao, Tri mẫu, Mạch đông, Bán hạ, Trúc diệp, Cam thảo để liết nhiệt cứu tân (Ngoại cảm ôn nhiệt thiên).