Tên khác: bệnh sốt St Joaquim, bệnh sốt sa mạc, bệnh sốt thung lũng, bệnh Posadas-Rixford.
Định nghĩa
Bệnh nhiễm nấm ở sâu, nung mủ, gây ra tổn thương u hạt, với những biểu hiện lâm sàng thường hay giống với bệnh lao.
Căn nguyên
Tác nhân gây bệnh là nấm Coccidioides immitis, có bào tử lan truyền theo gió thổi, và lây nhiễm vào cơ thể người do hít phải chúng trong không khí. Nấm cũng gây nhiễm ở gia súc, mèo, chó và những loài gặm nhấm hoang dã sống ở các sa mạc.
Dịch tễ học
Bệnh xảy ra thành dịch địa phương trong những vùng khô cằn ở miền Nam Hoa Kỳ, Mêhicô, ở Trung Mỹ, ở Venezuela, và Achentina. Bệnh xảy ra lẻ tẻ ở những người đã từng tới các vùng có dịch địa phương kể trên.
Triệu chứng
SƠ NHIỄM (sốt thung lũng): nhiễm nấm có thể hoàn toàn không triệu chứng, hoặc sau thời kỳ ủ bệnh 1-4 tuần có những biểu hiện lâm sàng giống một hội chứng cúm với sốt, ho, và đau ngực. Có thể thấy thâm nhiễm phế quản phổi, hoặc tràn dịch màng phổi, hoặc sưng hạch bạch huyết ở nhóm khí phế quản. Đôi khi bệnh nhân bị đau khớp háng và khớp gối (gọi là “bệnh thấp sa mạc”). Ban đỏ nút thấy trong 5% các trường hợp. Bệnh có thể diễn biến tới khỏi hoàn toàn trong vài tuần, có hoặc không để lại di chứng xơ hoá hoặc calci hoá (vôi hoá) những tổn thương ở phổi. Ngược lại, bệnh cũng có khả năng tiến triển tới thể hang hoặc tối thể toàn thân nhưng rất hiếm.
THỂ TOÀN THÂN: là một bệnh u hạt, thường nguy kịch, giống với bệnh lao kê. Tổn thương khu trú ở nhiều vị trí khác nhau (phổi, mô dưới da, xương, màng bụng). Thể toàn thân thường gặp ở người bị suy giảm miễn dịch, đặc biệt là bệnh nhân AIDS. Người ta cũng đã mô tả thể màng não có biểu hiện giống với lao màng não.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Chẩn đoán dựa trên xét nghiệm trực tiếp những bệnh phẩm dưới kính hiển vi như đờm, nưổc tiểu, mủ, hoặc bệnh phẩm sinh thiết, để phát hiện những nang c. immitis chứa những bào tử của nấm.
Có thể cấy bệnh phẩm trong môi trường Sabouraud.
Làm phản ứng nội bì với coccidioidin: phản ứng sẽ dương tính từ 3 đến 21 ngày sau khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện. Đối với thể cấp tính, phản ứng này có giá trị chẩn đoán hạn chế, vì phản ứng có thể dương tính cả trong những trường hợp nhiễm nấm đã cũ. Phản ứng nội bì âm tính trong những thể lan toả.
Xét nghiệm dịch não tuỷ: nếu phản ứng cố định bổ thể dương tính thì chẩn đoán xác định.
Chẩn đoán huyết thanh: kháng thể đặc hiệu có thể chỉ xuất hiện muộn vào tháng thứ 8.
Huyết đồ: tăng bạch cầu và tăng bạch cầu hạt ưa acid trong máu.
Chẩn đoán phân biệt: với bệnh lao, hai bệnh giống nhau đến mức có thể nhầm lẫn.
Điều trị: điều trị triệu chứng trong thể sơ nhiễm. Đối với những thể nặng, đặc biệt là ở bệnh nhân AIDS, cho amphotericin B (0,5-0,7 mg/kg cân nặng cơ thể mỗi ngày) tiêm tĩnh mạch. Đối với những đối tượng có khả năng miễn dịch bình thường, cho itraconazol hoặc fluconazol (400 mg mỗi ngày) uống trong ít nhất 8 tuần.