CAM TOẠI
Tên khoa học: Euphorbia kansui Liou.; Họ thầu dầu (Euphorbiaceae)
Bộ phận dùng: Rễ. Rễ từng chuỗi như cái suốt thoi, vỏ sắc vàng hoặc trắng xám. Rễ to, ít xơ, nhiều bột trắng ngà, không mọt là tốt.
Việt Nam dùng cây niệt gió làm nam cam toại để lợi thủy, trục đàm.
Thành phần hóa học: Chưa rõ.
Tính vị – quy kinh: Vị đắng, tính hàn. Vào kinh thận.
Tác dụng: Tiêu thũng
Công dụng: Thủy thũng, trướng đầy, tích đờm.
Liều dùng: Ngày dùng 2 – 4g.
Kiêng kỵ: Người khí hư, không thực tà cấm dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
– Lấy rễ giã nát nhỏ dùng nước cam thảo ngâm 3 ngày (nước thành đen như mực) vớt ra ngâm vào nước chảy. Rửa đãi 3 – 7 lần đến khi nước trong thì đem sao giòn (Lôi Công).
– Lấy bột bọc cam toại nướng chín cho bớt chất độc rồi dùng (Lý Thời Trân).
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Lấy rễ cam toại ngâm nước vo gạo độ 3 giờ, vớt ra cạo sạch vỏ ngoài, thái lát mỏng, rồi sao với cám (1 cam toại và 1/2 cám) cho vàng giòn (thường dùng). Có thể tán bột.
– Lấy cám ẩm (vẩy qua nước cho ẩm) bọc lấy cam toại đã rửa sạch (nếu cần); đốt cháy cám ở ngoài
là được.
Bảo quản: Dễ sâu mọt, để trong thùng có lót vôi sống, đậy kín.