CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA THỰC QUẢN:

Khám X quang sự chuyển vận của baryt (thuốc cản quang cho uống rồi soi hoặc chụp X quang).

Đo áp lực trong thực quản (xem kĩ thuật này).

Chụp nhấp nháy thực quản: cho bệnh nhân ucíng nước hoặc ăn bữa ăn đánh dấu bằng technetium phóng xạ.

CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA DẠ DÀY:

Chụp nhấp nháy dạ dày:cho phép đo tốc độ ra khỏi dạ dày của các sợi thức ăn và những thức ăn khác của bữa ăn chuẩn.

X quang: những phim X quang bụng chụp tiếp nối nhau sau khi cho bệnh nhân ăn bữa ăn chứa các hạt cản quang cho phép đo tốc độ tông đẩy thức ăn ra khỏi dạ dày.

CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA RUỘT:

  • Đo thời gian chuyển vận tổng thể:sử dụng test với carmin để xác định thời gian xuất hiện chất mầu này trong phân (bình thường là từ 12 đến 14 giờ sau khi ăn), hoặc test với các hạt cản quang: cho bệnh nhân ăn kẹo chứa các hạt cản quang. Sau đó đo độ phóng xạ của phân qua những khoảng thời gian nhất định và chụp bụng để đo thời gian chuyển vận tống thể của đại tràng.
  • Đo thời gian chuyển vận của ruột non:

+ Chuyển vận baryt: đo rất ước chừng.

+ Test hô hấp với lactulose: đo thời gian xuất hiện khí hydro trong hơi thở bệnh nhân do lactulose bị lên men trong đại tràng.

+ Chụp nhấp nháy ruột: đo thời gian chuyển vận thức ăn miệng-manh tràng của một bữa ăn có chất đồng vị phóng xạ (đo thời gian từ lúc ăn tới khi thức ăn xuống tới manh tràng).

  • Đo thời gian chuyển vận của đại tràng:cho đôi tượng nuốt những nang chứa các hạt cản quang. Sau đó mỗi ngày chụp một phim bụng cho tới khi không còn hình ảnh của các hạt phóng xạ. Trên mỗi phim lại chia ra 4 vùng (tương ứng với đại tràng phải, trái, đại tràng sigma và trực tràng), đếm số hạt có hình ảnh chụp được trong các vùng này.

ĐO ÁP LỰC HẬU MÔN-TRỰC TRÀNG: sử dụng một ống thăm dò có 4 kênh trang bị bởi những bóng nhỏ cho phép làm căng phồng bóng trực tràng và từ đó đo áp lực của trực tràng ở các phần bóng, phần trên và phần dưới ống hậu môn.

0/50 ratings
Bình luận đóng