Sự chít hẹp thực quản với lỗ rò khí quản là một khuyết tật bẩm sinh với tỷ lệ 1/3000 – 1/4000 trẻ mới sinh.
Bệnh đã được Thomas Gibson mô tả vào năm 1698, nhưng mãi tới năm 1939 trẻ được cứu sống đầu tiên bởi Drs Logan và Ladd. Bằng thắt đường rò khí quản và mở thông dạ dày.
Sự sai sót xuất hiện giữa ngày thứ 21-34 của sự phát triển bào thai.
Phân loại teo thực quản
Dựa vào các kiểu đường rò và thương tổn giải phẫu Ladd và Gross chia làm 5 kiểu.
Tỷ lệ teo thực quản có rò với khí quản chiếm tối 90% các trường hợp, chỗ rò thường gần với
Chẩn đoán sớm là hết sức quan trọng, ngăn chặn được tổn thương phổi do hít phải dịch dạ dày, dịch tiết gây viêm phổi.
Cần phát hiện các dị tật kèm theo để có thái độ xử trí thích hợp.
CHUẨN BỊ BỆNH NHÂN
Để bệnh nhân ở tư thế đầu cao tránh sặc nước bọt và thường xuyên hút nước bọt.
TIỀN MÊ
Atropin 0,02mg/kg, TM.
KHỞI MÊ
Cho bệnh nhân thở khí mê halothan tự nhiên, khi bệnh nhân ngủ tốt tiến hành đặt nội khí quản (NKQ).
Hoặc có thể đặt NKQ bằng cách cho bệnh nhân thở khí mê halothan + giãn cơ norcuron 0,01/kg + fentanil 1-2pg/kg, tổng liều có thể lên tới 10-15pg/kg.
Chú ý bóp bóng tránh áp lực cao đưa khí vào dạ dày gây trào ngược vào phổi.
Không nên đặt NKQ “sống” tránh phù nề thanh quản, gây khó thở sau mổ.
Kỹ thuật đặt NKQ: đặt nội khí quản về phía bên phải và rút dần ra ngay trên carina (chỗ rò thường nằm ở vị trí gần carina) bằng cách để ống nghe ở phổi bên trái vừa bóp bóng vừa nghe, khi nào thấy tiếng rì rào phế nang thì dừng lại.
Có thể quay mặt vát của NKQ sang bên trái để tránh NKQ vào chỗ rò khí phế quản.
Phải đảm bảo chắc chắn NKQ nằm ở vị trí mong muốn khi đã thay đổi tư thế (kiểm tra ngay sau khi đặt tư thế, đặc biệt ở nách bên trái).
Có thể điều chỉnh NKQ ngay sau khi phẫu thuật viên mở ngực tìm được đường rò.
DUY TRI MÊ
Bằng các thuốc mê bốc hơi như halothan, foran, norcuron, fentanil liều lượng tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh nhân.
Trong mổ cần theo dõi sát sự tắc ống NKQ do sự co kéo, chèn ép khí quản, vì vậy phẫu thuật viên phải mổ nhẹ nhàng tránh tổn thương tới việc thông khí, gắn ống nghe vào nách bên trái theo dõi rì rào phế nang liên tục và Sp02.
Hút NKQ ngắt quãng là cần thiết trong tiến hành phẫu thuật.
Trong mổ theo dõi: mạch, HA, Sp02, C02, nhiệt độ.
Duy trì lúc đầu 4ml/kg/giờ dung dịch dextrose 10% + thêm dung dịch ringer (200ml dextrose + 20ml ringer).
Truyền máu ít khi được chỉ định, duy trì hematocrit > 40%.
Tiêu chuẩn rút NKQ: bệnh nhân tĩnh, mở mắt, thở tốt và các thông số Sp02, C02, HA đảm bảo ở giới hạn bình thường.
Có thể giải giãn cơ atropin 0,02mg/kg, neostigmin 0,07mg/kg.
Sau mổ đối với trẻ non yếu có thể để NKQ và thở máy ở Khoa Điều trị tích cực.
GIẢM ĐAU SAU MỔ
Có thể dùng morphin: 0,05 – 0,1mg/kg TM. Chỉ được dùng ở hồi tỉnh hoặc ở điều trị tích cực và theo dõi sát hô hấp