Khái niệm
Chỉ nhiệt không hàn là chỉ trong quá trình bệnh nhiệt tính xuất hiện chứng trạng chỉ phát nhiệt mà không ố hàn. Nguyên nhân của phát nhiệt rất nhiều, nói chung chia làm hai loại: Ngoại cảm phát nhiệt và Nội thương phát nhiệt. Thông thường Ngoại cảm phát nhiệt thì phát bệnh gấp, xu thế nhiệt cao. Nội thương phát nhiệt thì phát bệnh từ từ, thường là sốt nhẹ. Ngoại cảm phát nhiệt lúc bắt đầu, phát nhiệt ố hàn hoặc ố phong đồng thời xuất hiện. Khi biểu tà đã vào lý hóa nhiệt phần nhiều biểu hiện triệu chứng chỉ nhiệt không hàn. Trong Biện Thái dương bệnh mạch chứng tính trị – sách Thương hàn luận có chỉ rõ: “Không ố hàn chỉ thấy nhiệt là bệnh thuộc thực”. Đời sau tin cậy thuyết này coi là một tiêu chuẩn để biện chứng Ngoại cảm nhiệt bệnh khi bệnh tà đã vào lý.
Mục này chủ yếu bàn về trong Ngoại cảm nhiệt bệnh có chứng trạng chỉ nhiệt không hàn, còn như Nội thương phát nhiệt và các chứng chỉ nhiệt không ố hàn trong các bệnh: “Ôn ngược”, “Đản ngược”, thì phân biệt trình bày ở các mục hữu quan như “Ngũ Tâm phiền nhiệt”, “Triều nhiệt”, “Hàn nhiệt vãng lai”…Chứng hậu thường gặp
- Chỉ nhiệt không hàn do tà nhiệt hun đốt Phế: Phát nhiệt mà không ố hàn, khái thấu, đau ngực, khạc ra đờm dính, sắc vàng và tanh, mũi thở phì phò, khát nước đau họng, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng thô hoặc vàng nhớt, mạch Hoạt Sác.
- Chỉ nhiệt không hàn do nhiệt tà hun đốt Dương minh: Có chứng trạng không ố hàn lại Ô nhiệt, sốt cao, mặt đỏ, mồ hôi ra nhiều, rất phiền khát, tiểu tiện vàng sẻn, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng Đại.
- Chỉ nhiệt khống hàn do nhiệt kết ở đường ruột: sốt cao không ố hàn, về chiều bệnh nặng hơn, bụng đầv rắn đau ấn vào rất chắc, đại tiện không thông hoặc nhiệt kết bàng lưu. Thậm chí hôn mê nói sảng, phiền táo không yên, rêu lưỡi vàng khô hoặc đen quắt, mạch Trầm Thực có lực.
- Chỉ nhiệt không hàn do thấp nhiệt bị uất nung nấu:Có chứng trạng mình nóng lúc phát, lúc ẩn náu mà không ố hàn. về chiều chuyển nặng hơn, ra mồ hôi mà vẫn không giải, khát không uống nước, ngực bụng bĩ đầy mình nặng kém ăn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền, Hoạt, Sác.
- Chí nhiệt không hàn do Thử nhiệt tổn thương khí:Có chứng trạng phát nhiệt không ố hàn, đau đầu, mặt đỏ,thở thô, ngực phiền táo khó chịu, khát muốn uống nước, mồ hôi ra quá nhiều, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch Hồng Sác.
Chỉ nhiệt không hàn do nhiệt vào Doanh Huyết: Có chứng trạng phát nhiệt nặng về chập tôi mà không ố hàn, phiền táo không ngủ được, miệng khô, thậm chí nói sảng phát cuồng, tinh thần hôn mê, nổi ban chẩn, chất lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi ít hoặc sáng bóng không có rêu, mạch Tế, Sác.
Phân tích
- Chứng chỉ nhiệt không hàn do tà nhiệt hun đốt Phế: Phần nhiều do nhiễm phải tà khí phong nhiệt ở trên hoặc ngoại cảm hàn tà uất lại hóa nhiệt. Tà nhiệt phạm Phế, Phế nhiệt hun đốt tân dịch, tân bị hun đốt keo lại thành đờm, đờm nhiệt úng nghẽn. Phế mất chức năng thanh túc gây nên. Lúc bắt đầu có thể thấy các chứng: ố hàn phát nhiệt, tiếp theo là chỉ nhiệt không hàn, khái thấu đau vùng ngực, khạc ra đờm dính sắc vàng mùi tanh, mũi thở phì phò. Yếu điểm biện chứng có đặc điểm là: phát nhiệt khcng ố hàn, khái thấu thở thô, đờm vàng dính. Điều trị theo phép thanh Phế tiết nhiệt hóa đàm chỉ thấu, chọn dùng các phương Thiên kim vi hành thang hợp với Tả bạch tán hoặc Ma hạnh thạch cam thang gia giảm.
- Chứng chỉ nhiệt không hàn do nhiệt hun đốtDương minh với chứng Chỉ nhiệt không hàn do nhiệt kết ở đường ruột: Hai chứng đều thuộc tà nhiệt vào lý của Dương minh bệnh. Chỗ khác nhau là một loại của Dương minh kinh chứng, một loại của Dương minh phủ chứng. Thương hàn tâm pháp yếu quyết – Dương minh nhiệt bệnh mạch chứng – sách Y tông kim giám có nói: “Bạch hổ chữa chứng phiền khát do nhiệt ở Dương minh ra mồ hôi, mình nóng, mạch Trường, Hồng không ố hàn lại ố nhiệt”. Cho nên yếu điểm để biến chứng do nhiệt hun đốt ở Dương minh là: nóng dữ, ra mồ hôi nhiều, rất phiền khát, mạch Hồng Đại. Tà hun đốt Dương minh khí phận nóng dữ cho nên không ố hàn lại ố nhiệt. Nhiệt nặng thì tấu lý khai tiết, cho nên ra nhiều mồ hôi. Tà nhiệt quấy rối ở trong hun đốt tân dịch thì rất phiền khát mà mạch Hồng Đại. Thương hàn tâm pháp yếu quyết – Dương minh phủ mạch chứng – sách Ỵ tông kim giám có nói: “VỊ thực, mạch Đại ở phủ Dương minh đại tiện khó như chứng Tỳ ước hầm hập nóng từng cơn ra mồ hôi dâm dấp, vừa đầy vừa đau mới được bàn dùng đến tam Thừa”. Cho nên yếu điểm biện chứng nhiệt kết ở đường ruột là: về chiều nóng từng cơn, bụng đầy rắn đau, đại tiện không thông, nặng hơn thì hôn mê nói sảng, rêu lưỡi vàng khô hoặc khô đen, mạch Trầm Thực có lực. Tà nhiệt kết ở Trường vị thì phủ khí không thông, mất chức năng truyền đạo thì bụng rắn đầy đau, đại tiện táo nhiệt hoặc nhiệt kết bàng lưu. Tà nhiệt hun đốt bức bách, lý nhiệt quấy rối ở trong, thần minh nghịch loạn thì hôn mê nói sảng, rêu lưỡi vàng khô hoặc đen khô. Loại trên điều trị theo phép thanh khí tiết nhiệt chọn dùng phương Bạch hổ thang gia giảm. Nếu lý nhiệt hun đốt hao thương khí tân, điều trị theo phép thanh nhiệt tiết hoả, ích khí sinh tân, chọn dùng phương Bạch hổ gia Nhân sâm thang. Loại sau điều trị theo phép tiết nhiệt ở Phủ, công hạ táo kết, căn cứ vào nhiệt kết nặng hay nhẹ chọn dùng các phương Đại Thừa khí thang, Tiểu thừa khí thang hoặc Điều vị Thừa khí thang.
– Chứng Chỉ nhiệt không hàn do thấp nhiệt bị uất hun đốt với chứng Chỉ nhiệt không hàn do Thử nhiệt làm thương khí: Cả hai chứng thường gặp vào mùa Hè, Thu, bệnh tà đều ở khí phận, nhưng nguyên nhân khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng có đặc điểm riêng. Chứng chỉ nhiệt không hàn do Thấp nhiệt bị uất hun đốt phần nhiều phát bệnh ở lúc giao mùa Hạ, Thu, và mùa mưa ẩm ướt là loại bệnh kiêm cả thấp và nhiệt. Thấp là âm tà tính nặng đục dính trệ lại kiêm nhiệt hun đốt cho nên bệnh trình khá dài, dằng dai lâu khỏi. Thời kỳ đầu phát nhiệt có kiêm chứng ố hàn, tiêp theo là tà nhiệt lưu luyến khí phận chỉ nhiệt không hàn. Tiết Sinh Bạch viết trong sách Thấp nhiệt bệnh thiên: “Chứng thấp nhiệt bắt đầu là ố hàn, về sau chỉ nhiệt không hàn, ra mồ hôi, ngực bĩ đầy, lưỡi trắng miệng khát mà không muốn uống”. Yếu điểm biện chứng là ở chỗ mình nóng, bứt dứt, sáng nhẹ, tôi nặng lại thấy cả các chứng trạng thấp ngăn trở khí cơ như ngực đầy kém ăn; buồn nôn đắng miệng, khát không muốn uống nước. Chứng chỉ nhiệt không hàn do Thử nhiệt thương khí phát bệnh phần nhiều do mùa Hạ bị thương Thử hoặc do mồ hôi ra quá nhiều hao thương tân dịch và khí, hoặc do ham mát nhiễm sương móc Thử tà nhân chỗ hư xâm phạm mà thành bệnh. Yếu điểm biện chứng là sốt cao mặt đỏ phiền khát uống nước là những chứng trạng Thử tà làm thương khí phận. Loại trên điều trị theo phép tuyên khí hóa thấp, thanh nhiệt đạt tà dùng các phương Tam nhân thang, Liên phác ẩm… Loại sau điều trị theo phép thanh Thử tiết nhiệt ích khí sinh tân dùng phương Vương thị thanh thử ích khí thang. Thời kỳ đầu có thể phối hợp với Bạch hổ thang. Thời kỳ cuối có thể phối hợp với Sinh mạch tán.
– Chứng chỉ nhiệt không hàn do nhiệt vào Doanh Huyết: Phần nhiều do nhiệt tà xâm nhập Doanh Huyết gây nên. Nhiệt tà hun đốt Doanh Huyết cho nên xu thế nhiệt tràn lan chỉ nhiệt không hàn. Diệp Hương Nham tác giả Ngoại cảm ôn nhiệt thiên có viết: “Sau Vệ hãy nói khí, sau Doanh hãy nói huyết”, chứng ở Doanh phần phát triển thêm một bước tức là chứng ở huyết phần, hai loại này không tách rời hẳn nhau. Yếu điểm biện chứng là chỉ nhiệt không hàn, xu thế nhiệt sáng nhẹ, tôi nặng phiền táo không ngủ được, tinh thần hôn mê nói sảng, chất lưỡi đỏ tía. Nếu nhiệt nặng động huyết có thể có các chứng thổ huyết, tiện huyết, niệu huyết và phát ban… Điều trị theo phép thanh Doanh lương huyết, tiết nhiệt giải độc chọn dùng các phương Thanh Doanh thang, Tê giác địa hoàng thang gia giảm.
Chỉ nhiệt không hàn là một loại chứng trạng bệnh tà vào lý hoá nhiệt, lúc này bệnh tà đang thịnh chính khí chống lại tà khí, tà khí và chính khí tranh giành nhau kịch liệt phần nhiều thuộc thực chứng là thời khắc mấu chốt trong quá trình nhiệt bệnh quyết định chuyển quy của bệnh. Lâm sàng cần xem xét kỹ tà nhiệt biến hoá ở Khí ở Doanh hay ở Huyết, nắm chắc cơ chế bệnh, về nguyên tắc điều trị cơ bản là khư tà để tiết nhiệt. Tạp chứng mô trong Cảnh Nhạc toàn thư có nói: “Về phép chữa nhiệt đôi với loại nhiệt nhẹ thì nên dùng thuốc mát để hoà. Đối với khí hoả nhiệt nên dùng thuốc lạnh để khống chế. uất nhiệt ở kinh lạc thì nên sơ tà để phát tán. Nhiệt kết ở tạng phủ thì nên dồn ép bỏ đi…”, có thể nói là lời khuyến rất ý nghĩa mang nhiều ý nghĩa phát minh về biện chứng luận trị đối với chứng này.
Trích dẫn y văn
- Khi phát nhiệt bệnh cũng cần phải phân biệt nội và ngoại. Như cảm phong hàn mà chuyển hóa là nhiệt, hoặc vì thời khí mà hỏa thịnh thành nhiệt đó là cái nhiệt ngoại lai cũng tức là thuộc loại Thương hàn ôn dịch thời độc khái ngược. Còn nếu như nhiệt do từ trong sinh ra thì có nguyên nhân do ăn uống gây nên, do mệt nhọc gây nên, do tửu sắc, do thất tình gây nên, do thuốc men gây nên, do quá ấm, do âm hư gây nên. Có khi ngẫu nhiên cảm nhiễm gây nên, có khi do tích lũy gây nên. Tuy nguyên nhân có khác nhau mà bệnh hậu thì không vượt qua biểu lý. Cho nên ở bên ngoài nên xem xét bệnh tà ở kinh lạc nông hay sâu. Ớ bên trong nên xem xét âm dương tạng phủ như thế nào… (Tạp chứng mô – Cảnh Nhạc toàn thư).
- Chứng phát nhiệt là nhiệt phát hiện ra ở cơ biểu. Đối với bệnh phát nhiệt nhiều là nhiệt sinh ra từ hỏa, hỏa vốn từ khí. lý lẽ không ngoài hai đầu môi khí len lỏi và khí uất. Khí len lỏi có 3 trường hợp: một là dương cang phát nhiệt, hai là âm hư phát nhiệt, ba là dương hư phát nhiệt. Khí uất có 7 trường hợp: một là phong hàn uất nhiệt, hai là ẩm thực uất nhiệt, ba là đờm ẩm uất nhiệt, bốn là ứ huyết uất nhiệt, năm là thủy thấp uất nhiệt, sáu là Can khí uất nhiệt, bảy là Tỳ khí uất nhiệt. (Tạp bệnh quảng yếu – Nội nhân loại – ố hàn phát nhiệt).