Cơn thiếu máu não cục bộ tháng qua là một rối loạn chức năng thần kinh. Bệnh có đặc điểm xuất hiện đột ngột, có triệu chứng thần kinh cục bộ, tồn tại trong thời gian dưới 24 giờ, phục hồi triệu chứng hoàn toàn và có xu hướng lặp lại nhiều lần
Mục lục
I. NGUYÊN NHÂN
Cơ chế thiếu máu cục bộ thoáng qua vẫn chưa rõ người ta nghĩ do cá nguyên nhân sau
- Xơ vữa động mạch
- Các bệnh tim gây thuyên tắc: rung nhĩ, hẹp van 2 lá, van tim nhân tạo,,..
- Các nguyên nhân gây thuyên tắc mạch khác: mãng xơ vữa từ động mạch đến động mạch có đường kính nhỏ hơn, huyết khối tĩnh mạch phổi
II. LÂM SÀNG
Cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua có triệu chứng tùy theo sự phân bố máu nuôi cùa động mạch. Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua có thể kéo dài vài giây đến 12 – 24 giờ thường 10 – 15 phút. Dựa trên các đặc điểm của cơn thiếu máu não thoáng qua có thể định khu được động mạch liên quan
Các biểu hiện thuộc hệ động mạch cảnh: mù tạm thời một mắt, liệt nhẹ nửa người, rối loạn cảm giác nửa người, rối loạn ngôn ngữ
Các biểu hiện thuộc hệ động mạch cột sống thân nền: biểu hiện lâm sàng rất đa dạng các triệu chứng vận động cảm giác hai bên luân chuyển, thất điều vận động bên này hoặc bên kia, cảm giác chóng mặt làm bệnh nhân phải nhắm mắt, đi loạn choạng, rung giật nhãn cầu, các rối loạn vận nhãn hay vận ngôn
III. CẬN LÂM SÀNG
CT đầu ít có giá trị chẩn đoán
MRI đầu phát hiện sớm tổn thương có kích thước nhỏ
Siêu âm xuyên sọ: đo tốc độ dòng máu nội sọ
Công thức máu, ion đồ, ure, creatinin, SGOT, SGPT, lipid máu, tổng phân tích nước tiểu, ECG,…
IV. CHẨN ĐOÁN
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng, hỏi bệnh sử và tầm soát nguyên nhân, chưa có tiêu chuẩn chắc chắn để xác định các cơn thiếu máu não thoáng qua
Phân biệt: động kinh, migraine, ngất, hạ đường huyết, hạ huyết áp tư thế
V. ĐIỀU TRỊ: nhằm ngừa đột quị trong tương lai
- Nội khoa:
Giảm thiểu các nguy cơ đột quị: hạ huyết áp nếu bệnh nhân tăng huyết áp, kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường, điều chỉnh lipid máu nếu có rối loạn lipid máu
Chống kết tập tiểu cầu:
Aspirin 160 – 300mg/ngày
Clopidrogel (plavix, pidocar,…) 75mg/ngày Các thuốc chống kết tập tiểu cầu sử dụng lâu dài
- Ngoại khoa: khi có hẹp hơn 70% đường kính động mạch cảnh
Tham khảo thêm
Cơn co giật do thiếu máu não cục bộ cấp tính hoặc mạn tính hay gặp như tắc mạch não, cơn sụp đổ (drop – attack).
Về lâm sàng, trên nền thiểu năng tuần hoàn não trường diễn, bất thần xuất hiện cơn, bệnh nhân qụy xuống, hoàn toàn mất ý thức. Cơn drop – attack đã được Sheehan Bauer và Meyer (1960) nghiên cứu, phát hiện trong khi tiến hành chụp động mạch sống – nền, bệnh nhân phải ưỡn – xoay cổ quá mức, gây thiếu máu não cục bộ cấp ở tháp hành tủy và chất lưới hành tủy. Nguyên nhân được giải thích như sau: khi gấp cổ, dòng máu trong động mạch đốt sống bị cản trở bởi hẹp lỗ mỏm ngang hoặc ở vùng bản lề đốt sống kết hợp với vữa xơ động mạch.
Cơn co giật do tắc mạch não thường gặp cục tắc có nguồn gôc từ tim trong bệnh hẹp van hai lá, rung nhĩ hoặc viêm màng trong tim bán cấp. Khi cục máu đông từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái, hay mảnh sùi loét của viêm màng trong tim bán cấp, theo dòng máu vòng đại tuần hoàn đến một động mạch nào đó bị tắc lại, gây thiếu máu cục bộ cấp tính sẽ có triệu chứng co giật.
Khám lâm sàng phải chú ý khám kỹ tim mạch để phát hiện triệu chứng của bệnh hẹp van hai lá như tiếng Tl đanh ở mỏm tim, tiếng T2 tách đôi ở đáy tim, rung tâm trương; siêu âm có hình ảnh đóng vôi van hai lá; điện tim có dày nhĩ trái, rung nhĩ, suy thất phải.
Nếu do viêm màng trong tim bán cấp, nên tìm các triệu chứng sốt kéo dài, khó thở, đau ngực, nhịp tim nhanh; siêu âm tim có cục sùi loét; nên cấy máu sớm và làm kháng sinh đồ để xác định vi khuẩn gây bệnh.
Nếu là cơn thiếu máu não tạm thời hoặc thiếu máu não mạn tính có từng đợt vượng lên thường hay xảy ra cơn sụp đổ: bệnh nhân đột ngột mất ý thức, giảm trương lực cơ, rối loạn vận động, bệnh nhân ngã và xuất hiện cơn co giật. Nguyên nhân do lượng máu giảm đột ngột, nếu kéo dài sẽ dẫn đến hôn mê; yếu tố hỗ trợ xảy ra trước khi ngất hay gặp là: gắng sức về thể lực và tinh thần. Quan sát thấy bệnh nhân vật vã, kích thích, mặt tím tái, rối loạn thần kinh thực vật, tiểu tiện không tự chủ… Khi bệnh nhân phục hồi ý thức, có thể thấy một số triệu chứng như chấn thương ở vùng đầu mặt, cắn phải lưỡi, mạch nhanh, huyết áp hạ. Khám tim phổi, bắt mạch cảnh, khám thần kinh tìm triệu chứng tổn thương thần kinh khu trú kết hợp với các triệu chứng cận lâm sàng như điện tim, điện não, siêu âm tim, kích thích vùng xoang cảnh, siêu âm mạch cảnh đoạn ngoài sọ, đo nhãn áp… mới có thể tìm được nguyên nhân gây co giật.