HỘI CHỨNG DUMPING

Hội chứng dumping có thể là biến chứng của những can thiệp ngoại khoa loại bỏ chức năng của môn vị, nói riêng là phẫu thuật cắt bỏ dạ dày. Hội chứng xảy ra là do thức ăn từ dạ dày đi xuông hỗng tràng quá nhanh.

HỘI CHỨNG DUMPING SỚM: xảy ra vào cuối bữa ăn, bệnh nhân cảm thấy bị yếu đi (hạ huyết áp và thỉu), kem theo là toát mồ hôi, ù tai, tim đập nhanh, thở nhanh sâu, đau bụng và tiếp sau là ỉa chảy typ nhu động, đôi khi buồn nôn và nôn.

Hội chứng dumping sớm gây ra do các thức ăn ưu trương (các món ăn và đồ uống quá mặn và quá ngọt) chúng kéo nước (do áp lực thẩm thấu) vào trong hỗng tràng một cách đột ngột, từ đó gây ra giảm thể tích máu và là nguyên nhân của những triệu chứng kể trên. Ngoài ra, còn xảy ra tăng đường huyết và giảm kali huyết. Nếu những biện pháp về chế độ ăn không giải quyết được vấn đề thì có thể dùng somatostatin.

Điều trị: ăn thành nhiều bữa ăn nhỏ (ăn ít) và tránh những món ăn quá ngọt hoặc quá mặn.

HỘI CHỨNG DUMPING MUỘN: giảm đường huyết có thể dẫn tới mất tri giác (bất tỉnh) xảy ra 1-3 giờ sau khi ăn, bệnh nhân không đau bụng và không ỉa chảy.

Điều trị: ăn thành nhiều bữa nhỏ, ít glucid, giàu protein và sợi thực vật. Muốn phòng ngừa giảm đường huyết thì có thể ăn trước một chút đường.

KÉM HẤP THU

  • Tăng chuyển vận chất từ dạ dày xuống hỗng tràng:những enzym (men) của tuy tạng và muối mật không có đủ thời gian để tác động, do đó bệnh nhân đại tiện phân có mỡ và mất protein vừa phải, nói chung vì được bù nhờ thức ăn mang lại. Giảm hấp thu chất sắt, calci, và vitamin D ở tá-hỗng tràng có thể gây ra hội chứng thiếu máu thiếu sắt hoặc nhuyễn xương.
  • Hội chứng quai ruột tịt:giảm acid chlorhydric của dạ dày và đôi khi có một quai ruột bị ứ đọng sau khi nối vị-tràng có thể tạo thuận lợi cho vi khuẩn sinh sản rất mạnh trong tá-hỗng tràng. Từ đó xảy ra phân có mỡ, nói chung ở mức độ nhẹ, và đôi khi thiếu vitamin B12, nhưng thiếu vitamin B12 thì hay xảy ra trong phẫu thuật cắt dạ dày toàn bộ.

LOÉT MIỆNG NỐI

Sau phẫu thuật nối vị-tràng, loét miệng nối có thể xuất hiện ở phía

tiểu tràng, hơi ở phía dưới miệng nối một chút. Loét miệng nối biểu hiện bởi đau bụng mang tính chất loét tái phát trở lại, giảm cân nặng cơ thể, tình trạng toàn thân suy sụp, thiếu máu thiếu sắt. Loét miệng nối hay có biến chứng: chảy máu tiêu hoá, thủng, đôi khi hẹp miệng nối, hoặc rò dạ dày-hỗng-đại tràng. Kỹ thuật nghiên cứu chuyển vận baryt khó phát hiện thấy loét miệng nối. Nội soi là phương pháp hàng đầu để chẩn đoán loại ổ loét này.

Điều trị: ranitidin (300 mg uống buổi tối trước khi đi ngủ) hoặc một thuốc ức chế bơm proton. Trong trường hợp không thành công thì phải phẫu thuật lại (cắt dạ dày rộng hơn, cắt dây thần kinh phế vị).

NHỮNG HỘI CHỨNG KHÁC

  • Rối loạn tống đẩy thức ăn ra khỏi dạ dày:hiếm xảy ra sau khi cắt dây thần kinh phế vị, tạo hình môn vị, và nối vị-tràng.
  • Viêm dạ dày teo đét mạn tính:do trào ngược (hồi lưu) mật.
  • Tắc quai ruột đến: có thể xảy ra sau nối vị-tràng ở bờ cong lớn. Biểu hiện vào 20-60 phút sau bữa ăn bằng cảm giác giãn cấp tính, tiếp ngay sau đó là nôn ra mật và thức ăn. Điều trị:kiểm tra lại phẫu thuật nối.
  • Thiếu acid folic:rất hiếm xảy ra nếu đảm bảo chế độ ăn cân đối.
  • Sỏi mật:hình như hay hình thành hơn sau phẫu thuật cắt dây thần kinh phế vị.
5/51 rating
Bình luận đóng