Mục lục
NHẬN THỨC CỦA ĐÔNG Y ĐỐI VỚI BỆNH UNG THƯ
Danh từ “UNG THƯ” trong đông y thường dùng chỉ các loại ung nhọt, ung là nhọt sưng nổi lên mặt da, đỏ đau hoặc có mủ thuộc dương chứng, thư là loại nhọt ăn sâu vào da thịt gây lở loét thuộc âm chứng. Nhưng sách đông y xưa vẫn có những từ như “thạch thư” (sách Linh khu) mô tả như ung thư xương, thạch ung (sách Chư bệnh nguyên hậu luận) mô tả tính chất cứng rắn có gốc liền với da như ung thư hạch, sau thời Kim Nguyên cho đến nay thường dùng chữ “Thũng Lựu” để chỉ các loại ung thư nói chung, riêng với loại ung thư ác tính thì dùng từ NHAM (đá núi) vì bờ của khối u nham nhở và cứng như đá. Hiện nay sách y của Trung Quốc thường dùng từ “Thũng Lựu” để chỉ ung thư nói chung và từ NHAM để chỉ ung thư như nhũ nham (ung thư vú), phế nham (ung thư phổi), tử cung nham (ung thư tử cung).v.v… hoặc nhục lựu (bướu thịt) để chỉ ung thư hạch (lâm ba nhục lựu: Lymphosarcome), trưng hà chỉ những khối u ở bụng v.v…
- Về nguyên nhân bệnh: Đông y cho nội nhân là quan trọng có liên quan đến bệnh như sách Tố Vấn nói: chứng nghẹn (ế cách) là do lo lắng đột ngột, sách Cảnh Nhạc toàn thư cũng viết: ưu sầu lo nghĩ vui giận thái quá, tình chí rối loạn (thất tình) làm tổn thương tỳ vị, đàm khí uất kết, khí huyết ứ trệ mà sinh ra ung thư, ngoài ra, độc tà xâm nhập tạng phủ làm khí huyết ứ trệ, đàm khí uất kết (ung thư phổi) do uống rượu, ăn nhiều chất cay chua táo nhiệt làm tổn thương tân dịch gây huyết táo sinh chứng ế cách (ung thư thực quản). Hoặc ăn uống no đói thất thường, rượu nhiều tổn thương tỳ vị, hoặc ăn chất cay nóng tổn thương tân dịch sinh đờm, khí huyết ứ trệ sinh bệnh (ung thư dạ dày, ung thư gan).
Tóm lại theo y học cổ truyền thì nguyên nhân của bệnh ung thư là do tình chí rối loạn là chính, thêm vào đó là do ăn uống quá độ, no đói thất thường, uống nhiều rượu, ăn nhiều chất cay nóng, dầu mỡ đều làm cho chức năng tỳ vị rối loạn, tân dịch hư tổn, khí huyết ứ trệ, đờm nhiệt uất kết mà sinh ra
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP VÀ LOẠI THUỐC CHÍNH CHỮA BỆNH ƯNG THƯ.
Phương pháp chữa bệnh ung thư của Đông y là một mặt nhằm nâng cao sức khoẻ của người bệnh do sự phá hoại của ung thư, như những phương pháp bổ khí, bổ huyết, bổ âm, bổ dương… Mặt khác, hạn chế sự phát triển của ung thư và những đau đớn, chảy máu, chèn ép tổ chức tạng phủ do chúng gây nên như phép tiêu đàm nhuyễn kiên, hành khí tiêu đàm, hoạt huyết hoá ứ, lương huyết tiêu độc, thanh nhiệt chỉ huyết…
Điều trị bằng Đông y gồm sử dụng thuốc theo biện chứng (tuỳ tình hình bệnh và cơ thể bệnh nhân mà chọn bài thuốc và phép chữa thích hợp, hoặc dùng bài thuốc theo kinh nghiệm, uống thuốc và đắp bôi thuốc ngoài.
Sau đây là những phương pháp chính chữa bệnh uống thuốc trong theo biện chứng luận trị Đông y học, còn những bài thuốc kinh nghiệm và thuốc dùng ngoài sẽ được giới thiệu trong phần chữa từng loại bệnh ung thư.
THANH NHIỆT GIẢI ĐỘC:
- Chỉ định: Trường hợp bệnh nhân sốt cao người nóng, khát nước, bứt rứt khó chịu, miệng đắng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác… gặp trong ung thư máu, ung thư cổ tử cung, ung thư ngoài da có kèm lở loét…
- Vị thuốc thường dùng: Kim ngân hoa, Thổ Phục linh, Liên kiều, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Trúc diệp, Thạch cao, Tri mẫu, Xuyên tâm liên, Thanh đại, Bồ công anh, Xạ can, Ngư tinh thảo, Bại tương thảo, Sơn đậu căn…
- Bài thuốc thường dùng:
- Phổ tễ tiêu độc ẩm (Hoàng liên, Hoàng cầm, Trần bì, Cam thảo, Liên kiều, Bản lam căn, Mã bột, Ngưu bàng tử, Bạc hà, Cương tàm, Thăng ma, Sài hồ, Cát cánh).
- Hoàng liên giải độc thang (Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Chi tử).
- Tiên phương hoạt mệnh ẩm (Xuyên sơn giáp, Bạch chỉ, Thiên hoa phấn, Tạo giác thích, Qui vỹ, Xích thược, Cam thảo, Nhủ hương, Một dược, Phòng phong, Bối mẫu, Trần bì, Kim ngân hoa).
- Ngũ vị tiêu độc ẩm (Kim ngân hoa, Bồ công anh, Tử hoa địa đinh, Tử bôi, Thiên quí).
- Tứ diệu dũng an thang (Huyền sâm, Đương qui, Kim ngân hoa, Cam thảo)
LƯƠNG HUYẾT CHỈ HUYÊT:
- Chỉ định: Trường hợp ung thư có sốt cao hoặc thấp kèm theo triệu chứng chảy máu như máu cam, máu răng lợi, nôn ra máu, tiểu ra máu, tiểu đỏ… chất lưỡi đỏ, mạch trầm sác hoặc tế sác.
- VỊ thuốc thường dùng: Tê giác, Quảng tê giác, sinh Địa, Địa cốt bì, Huyền sâm, Tử thảo, Thanh hao, Ngân Sài hồ, Hạn liên thảo (cỏ nhọ nồi), Ngẫu tiết (liên ngẫu, ngó sen), Liên phòng (gương sen), Trắc bá diệp, Ô tặc cốt (mai mực, hải phiêu tiêu) Hoa hòe, Bẹ móc (tông lữ), đất lòng bếp (phục long can), Tiên hạc thảo, Bách thảo sương (muội nồi) Thuyên thảo (Tây thảo) Địa du, 0 rô cạn (đại kế), Tiểu kế…
- Bài thuốc thường dùng: Thường dùng thuốc lương huyết gia thuốc chỉ huyết.
Thanh dinh thang gia vị (Tê giác, sinh Địa, Huyền sâm, tim Lá tre, Mạch môn, Đơn sâm, Kim ngân hoa, Liên kiều) gia Hoa hòe tán, (Hoa hòe, Trắc bá diệp, Kinh giới tuệ, đều sao cháy tồn tính).
Tê giác địa hoàng thang (Tê giác, sinh Địa, Xích thược, Đơn bì) gia Thập khôi tán (Đại tiểu kế, lá Sen, lá Ngải cứu, là Trắc bá, Mao căn, Tây thảo căn, Đại hoàng, Chi tử, Tông lữ bì) lượng bằng nhau, đều sao tồn tính tán bột mịn mỗi lần uống với nước sôi để nguội.
TƯ ÂM THANH NHIỆT:
- Chỉ định: Trường hợp ung thư kéo dài gây sốt âm ỉ, sốt tăng vào chiều và đêm, ra mồ hôi ban đêm, người nóng khó ngủ, uống nhiều nước, tiểu vàng, tiêu bón, thân lưỡi thon, rêu vàng khô, mạch trầm tế sác, vô lực.
- VỊ thuốc thường dùng: Sinh Địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Thiên hoa phấn, Miết giáp, Qui bản, Tri mẫu, Mẫu đơn bì, Ngân Sài hồ, Hồ hoàng liên, Hoàng tinh, Cát căn, Bạch thược, Liên kiều, Hồ ma nhân, Đại hoàng, Hoàng bá, Huyền sâm, A giao, Địa cốt bì… thường dùng các loại thuốc tư âm và thanh nhiệt kết hợp.
- Bài thuốc thường dùng:
Thanh táo cứu phế thang (Tang diệp, Thạch cao, Đảng sâm, Cam thảo, Hồ ma nhân, A giao, Mạch môn, hạnh nhân, Tỳ bà diệp).
Sa sâm Mạch môn thang (Sa sâm, Mạch môn, ngọc trúc, Cam thảo, Tang diệp, sinh Biển đậu, Thiên hoa phấn).
Dưỡng âm thanh phế thang (sinh Địa, Mạch môn, Cam thảo, huyền sâm, Bối mẫu, Đơn bì, Bạc hà, Bạch thược).
Bách hợp cố kim thang (Sinh, Thục địa, Bối mẫu, Bách hợp, Mạch môn, Huyền sâm, Đương qui, Bạch thược, Cam thảo, Cát cánh).
Những bài thuốc trên gia giảm chủ yếu, dùng chữa ung thư phổi và đường hô hấp.
- Đại bổ âm hoàn (Hoàng bá, Tri mẫu, Thục địa, Qui bản).
- Nhất quán tiễn (Bắc Sa sâm, Đương qui, sinh Địa, kỷ tử, Xuyên luyện tử). Hai bài thuốc này chữa ung thư có hội chứng can thận âm hư gây bốc hư hỏa (da nóng, bứt rứt, sốt chiều, mồ hôi trộm, đau ngực sườn, ho nôn ra máu…).
- Lục vị địa hoàng hoàn (Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả, Đơn bì). Tri mẫu địa hoàng hoàn (Lục vị gia tri mẫu, Hoàng bá), Kỷ cúc Địa hoàng hoàn (Lục vị gia Câu kỷ tử, Cúc hoa), Mạch vị Địa hoàng hoàn (Lục vị gia Mạch môn, Ngũ vị tử) đều dùng để chữa ung thư có hội chứng âm hư.
HÀNH KHÍ HOẠT HUYẾT:
- Vị thuốc thường dùng: Thuốc hành khí thường dùng có: Hương phụ, Mộc hương, Sa nhân, Ô dược, Quất bì, Thanh bì, Hậu phác, Chỉ xác, Chỉ thực, Bạch đậu khấu, Đàn hương, Lệ chi hạch, Đại phúc bì, Trầm hương…Thuốc hoạt huyết thường dùng có: Đơn sâm, Xích thược, ích mẫu thảo, Trạch lan, Xuyên khung, Xuyên Ngưu Tất, Đào nhân, uất kim, Khương hoàng, Nga truật, Tam lăng, Tô mộc, Nhũ hương, Mộc dược, Hồng hoa, Đào nhân, Vương bất lưu hành, Huyết kiệt, Ngũ linh chi.
- Chỉ định: Được dùng nhiều trong các bệnh ung thư có đau do khối ung thư gây chèn ép. Y học cổ truyền cho rằng đau là do khí huyết ứ trệ, nếu là khí trệ thì đau tức và đau truyền lan các vùng khác, nếu là huyết ứ thì đau như dao đâm có tính cố định thường vào giai đoạn khối u phát triển lớn. Ớ vào giai đoạn này, thường cơ thể bệnh nhân suy yếu cho nên phép hoạt huyết hoá ứ thường kèm bổ khí huyết.
- Bài thuốc thường dùng:
- Việt Cúc hoàn (Thương truật, Hương phụ, Xuyên khung, Thần khúc, Sơn chi tử sao), lượng bằng nhau, tán bột mịn, nước làm hoàn nhỏ, mỗi lần uống 6 – 10g hoặc làm thang sắc uống trị ung thư dạ dày, bụng đầy tức, nôn, ợ thức ăn không tiêu.
- Bán hạ hậu phác thang (Bán hạ chế, Hậu phác, Phục linh, sinh Khương, Tô diệp) trị ung thư hô hấp ngực sườn đầy tức, ho khó thở, có đờm nôn ra khó
- Ô dược tán (Ô dược, Mộc hương, Tiểu hồi hương, Thanh bì, Cao lương khương, Binh lang, Xuyên luyện tử, Ba đậu chế) có tác dụng giảm đau.
- Quất hạch hoàn (Quất hạch, Hải tảo, Côn bố, Xuyên luyện tử, Đào nhân, Hậu phác, Mộc thông, Chỉ thực, Diên hồ sách, Quế tâm, Mộc hương) có tác dụng nhuyễn kiên tán kết giảm đau.
- Quất bì Trúc nhự thang (Quất bì, Trúc nhự, Đại táo, sinh Khương, Cam thảo, Đảng sâm) có tác dụng trị nôn.
Những bài thuốc hoạt huyết thường dùng có:
- Đào nhân thừa khí thang (Đào nhân, Đại Hoàng, Quế chi, chích Thảo, Mang tiêu).
- Huyết phủ trục ứ thang (Đương qui, sinh Địa, Đào nhân, Hồng hoa, Chỉ xác, Xích thược, Sài hồ, Cam thảo, Cát cánh, Xuyên khung, Ngưu Tất).
- Cách hạ trục ứ thang (Ngũ linh chi sao); Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Đơn bì, Xích thược, Ô dược, Diên hồ, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, Chỉ xác)
- Tiểu phúc trục ứ thang (Tiểu hồi, Can khương, Diên hồ, Một dược, Xuyên khung, Đương qui, Nhục quế, Xích thược, Bồ hoàng, Ngũ linh chi sao).
- Thân thống trục ứ thang (Tần giao, Xuyên khung, Một dược, Đương qui, Ngũ linh chi sao, Hương phụ, Ngưu Tất). Những bài thuốc trục ứ được dùng tùy theo vị trí đau của ung thư.
- Bổ dương hoàn ngũ thang (Hoàng kỳ, Đương qui vỹ, Xích thược, Địa long, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa) tác dụng thông lạc hoạt huyết bổ khí trị ung thư gây liệt, méo miệng khó nói…
- Thất tiếu tán (Ngũ linh chi, Bồ hoàng lượng bằng nhau).
- Sinh hóa thang (Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Bào khương, chích Thảo).
Theo một số tác giả Trung Quốc và Nhật Bản đã nghiên cứu trên chuột và cả trên người đều nhận thấy thuốc hành khí hoạt huyết có tác dụng ức chế tế bào ung thư cho nên có tác giả đã dùng thuốc lý khí hạch huyết để phòng bệnh ung thư.
BỔ KHÍ HUYẾT
- Chỉ định:
Bệnh ung thư phát triển nhanh làm cho người bệnh cơ thể chống suy nhược, thiếu máu nên phép bổ khí huyết nâng cao sức chống đỡ của người là rất cần thiết đối với mọi loại ung thư.
- Vị thuốc thường dùng:
- Thuốc bổ khí: Nhân sâm, Sâm khu V, Cát Lâm sâm, Tây dương sâm, Đảng sâm, Sâm bố chính, Hoàng kỳ, Bạch truật, Hoài sơn, Đinh lăng, Cam thảo, Đại táo, Ngũ gia bì, kẹo Mạch nha, Mật ong…
- Thuốc bổ huyết: Đương qui, Thục địa, Hà thủ ô, tang thầm, Tử hà sa (rau thai nhi), A giao (keo da lừa), Long nhãn nhục, Câu kỷ tử…
- Bài thuốc thường dùng:
- Bài thuốc bổ khí: Độc sâm thang (một vị Nhân sâm). Tứ quân tử thang (Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, chích Thảo), Lục quân tử thang (Tứ quân gia Trần bì Bán hạ) hương sa lục quân (Lục quân tử gia Mộc hương Sa nhân Sâm Linh Bạch truật tán (Tứ quân gia Hoài sơn, Biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ, Cát cánh, Sa nhân) bổ trung ích khí thang (Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, chích Thảo, Đương qui, Trần bì, Thăng ma, Sài hồ) Sinh mạch tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị).
- Bài thuốc bổ huyết: Tứ vật thang (Thục địa, Xuyên qui, Bạch thược, Xuyên khung), Dao ngải thang (Xuyên khung, A dao, Cam thảo, Ngãi diệp, Đương qui, Bạch thược, can Địa hoàng), Đương qui bổ huyết thang (Hoàng kỳ, Đương qui)…
- Bài thuốc bổ khí huyết: Bát trân thang (Tứ quân gia tứ vật, lúc dùng gia sinh Khương Đại táo), Hà sa đại tạo hoàn (Tử hà sa, Nhân sâm, sinh Địa, Đỗ trọng, Thiên môn, Mạch môn, Qui bản, Hoàng bá, Phục linh, Ngưu Tất), Hà nhân ẩm (Hà thủ ô, Nhân sâm, Đương qui, Trần bì, sinh Khương)…
BỔ DƯƠNG.
- Chỉ định: Thường dùng phép ôn tỳ, ôn thận hoặc ôn tỳ thận trong trường hợp bệnh nhân chân tay lạnh, hay tiêu chảy, ăn không tiêu đầy bụng, phù… thường gặp vào giai đoạn cuối của bệnh, người suy kiệt, mạch chậm, huyết áp hạ, lúc nặng phải dùng hồi dương cứu nghịch để cấp cứu.
- Vị thuốc thường dùng: Chê Phụ tử, Quê nhục, Nhục thung dung, Nhục đậu khấu, Sơn thù, Thỏ ti tử, Sa uyển tật lê, Đỗ trọng, Tục đoạn, Ba kích thiên, cẩu tích, Bổ cốt chỉ, Cổ toái bổ, Lộc nhung, Cáp giới, ích trí nhân, Dâm dương hoắc…
- Bài thuốc thường dùng:
- Thận khí hoàn (can Địa hoàng, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Bạch linh, Đơn bì, Quế nhục, chế Phụ tử).
- Hữu qui hoàn (Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, thục Phụ tử, Quế nhục, Câu kỷ tử, Đỗ trọng, Thỏ ti tử, Đương qui, Lộc giáo dao).
- Chân vũ thang (Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, chế Phụ tử, sinh Khương
- Sâm phụ thang (Nhân sâm, chế Phụ tử).
HÓA ĐÀM NHUYỄN KIÊN.
- Chỉ định: Theo y học cổ truyền, hoá đờm nhuyễn kiên là phép trị tiêu có thể dùng cho tất cả các loại ung thư có khối ung thư và hạch sưng to thường kết hợp với phép hành khí hoạt huyết và tuỳ theo trạng thái bệnh lý mà kết hợp với các phép khác như bổ khí huyết, thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ huyết…
- Vị thuốc thường dùng: Có loại hoá đờm tán kết (hạn chế sự phát triển khối u) như Xuyên bối, Qua lâu nhân, Côn bố, Hải tảo, Hải phù thạch, Hải cáp xác… có loại hóa đàm chỉ khái (làm giảm ho trong trường hợp ung thư bộ máy hô hấp) như Ngưu hoàng, Trúc lịch, Trúc nhự, Qua lâu, Bối mẫu, Bán hạ, Nam tinh, Bạch giới tử, Tạo giác, Tỳ bà diệp, Tiền hồ, Cát cánh… có loại hóa đàm bình suyễn an thần như Thanh mông thạch, Ngưu hoàng, Thiên trúc hoàng, Phê thạch, Tạo giác, Bạch giới tử, La bặc tử, Bạch quả, Tang bì…
- Bài thuốc thường dùng:
- Nhị trần thang (Chế Bán hạ, Trần bì, Bạch linh, chích Thảo, nguyên phương có thêm sinh Khương, Ô mai).
- Ôn đởm thang (bài Nhị trần gia Trúc nhự, Chỉ thực, có thêm tác dụng cầm nôn).
- Địch đởm hoàn (Nhị trần gia đởm nam tinh, Chỉ thực, Đảng sâm, Xương bồ, Trúc nhự, trị trường hợp ung thư đờm lên mê man, nói khó.
- Kim thủy lục quân tiễn (nhị trần thang gia Đương qui, Thục địa) có tác dụng tư âm hoá đờm.
- Bối mẫu Qua lâu tán (Bối mẫu, Qua lâu, Thiên hoa phấn, Bạch linh quất hồng Cát cánh) tác dụng thanh nhiệt hóa đờm.
- Tiêu loa hóa đờm hỏa nhuyễn (Sâm, sinh Mẫu lệ, Bối mẫu, lượng bằng nhau) tác dụng hóa đờm nhuyễn kiên…
Trên đây chúng tôi giới thiệu những phương pháp chính điều trị bệnh ung thư theo biện chứng y học cổ truyền thường được kết hợp với nhau tuỳ theo tình hình bệnh lý. Ngoài ra, còn có những bài thuốc kinh nghiệm dùng ngoài hoặc uống trong được giới thiệu trong từng loại bệnh ở phần sau.