Tên khác: Hoài ngưu tất
Tên khoa học: Achyranthes bidentata Blume
Họ: Rau giền (Amaranthaceae)
1. Mô tả, phân bố
Là loại cây thảo, có thân mảnh hơi vuông, cao độ 1m, Ở các đốt phình lên như đầu gối chân trâu nên gọi là Ngưu tất (Gối trâu). Lá mọc đối, phiến lá hình trứng, đầu hơi nhọn, mép nguyên. Hoa tự mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá, rất dễ bám vào quần áo khi vương phải. Là loại cây di thực và được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng nước ta.
2. Bộ phận dùng, thu hái
Bộ phận dùng làm thuốc của cây Ngưu tất là rễ. Thu hái vào mùa đông khi thân lá đã khô héo. Đào lấy rễ, cắt bỏ phần trên cổ rễ và rễ con, rửa sạch đất cát, đem phơi lái rồi bó thành từng bó nhỏ, tiếp tục phơi cho tới khi da nhăn nheo, đem lăn rồi xông sinh vài lần, phơi khô, ta được vị ngưu tất có mùi đặc biệt, vị hơi ngọt, màu vàng tro. Dược liệu ngưu tất đã được ghi trong Dược điển Việt Nam (2002).
Cần chú ý phân biệt với một số vị có tác dụng tương tự như Ngưu tất có lưu hành trên thị trường như: Xuyên ngưu tất (màu nâu đen), Thổ ngưu tất – Ngưu tất nam (rễ cỏ xước).
3. Thành phần hóa học
Trong rễ Ngưu tất có saponin, chất nhầy và một số muối của ka li.
4. Công dụng, cách dùng
Dược liệu ngưu tất có tác dụng bổ gan, thận, mạnh gân cốt, thôhg huyết mạch. Dùng chữa đau lưng, mỏi gối, đau nhức xương, tê thấp, phụ nữ tắc kinh, đẻ khó. . .
Cách dùng: Uống 5-l0g/ngày, dạng thuốc bột hay thuốc sắc; có thể dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.