Mục lục
Hạt cơm thường
Trong nhiều năm qua, các nghiên cứu mù đôi, thử nghiệm lâm sàng có đối chứng đã cho thấy cimetidin không hiệu quả nhiều trong điều trị hạt cơm thông thường ở người lớn, nhiều tác giả đã sử dụng liều 40mg/kg/24h (Leman JA, Benton EC, 2000).
Nghiên cứu cho thấy khi dùng cimetidin uống liều từ 20- 40mg/kg/ngày trong điều trị hạt cơm kháng trị thì tỉ lệ sạch tổn thương lên đến 82%. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược, mù đôi điều trị hạt cơm kháng trị ở người lớn với liều cimetidine 2500mg/ngày ( 22-46mg/kg hàng ngày) trong 12 tuần, tỉ lệ sạch hạt cơm với cimetidine và giả dược lần lượt là 26% và 5% (p = 0.085)
Một nghiên cứu mở thực hiện trong 3 tháng với 47 bệnh nhân bị hạt cơm thường, kết quả có 56% trẻ em và 44% người lớn sạch tổn thương sau điều trị bằng cimetidin. Vì vậy, đối với trẻ em, trong những trường hợp không thể sử dụng thuốc bôi thì cimetidin có thể có hiệu quả. Ngoài ra, đã có một báo cáo thú vị mô tả sự cải thiện rõ rệt ở một em trai 16 tuổi bị loạn sản thượng bì dạng hạt cơm sau ba tháng uống cimetidin liều 40mg/kg/ngày, không tái phát sau sáu tháng theo dõi (Parsad D, Saini R, Negi KS,2001) .
Hạt cơm sinh dục (sùi mào gà) và u nhú
Nghiên cứu của Franco I. (2000) trên bốn trẻ bị sùi mào gà sinh dục và hậu môn cho kết quả rất tốt, liều cimetidin 30-40mg/kg/ngày; sạch tổn thương và được theo dõi hai năm sau điều trị. Cimetidin cũng hiệu quả trong u nhú đường hô hấp và u nhú kết mạc tái phát .
U mềm lây
U mềm lây là một bệnh thường gặp ở trẻ em do pox virus gây ra. Điều trị bằng cimetidin với liều 30-40mg/kg/ngày cho cả trẻ em và người lớn (Yasha SS, Shamiri B, 1999). Một nghiên cứu do Sharma AK (1998) trên 2 bệnh nhân, một với sáu mươi và một với hai trăm tổn thương, liều 40mg/kg/ngày chia bốn lần uống, sau sáu tuần thì sạch tổn thương.
Mày đay và các bệnh lí qua trung gian tế bào bón
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định sự hiện diện của các thụ thể histamin H2 cũng như H1 tại các mạch máu ở da. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các thụ thể H2 có vai trò trong đáp ứng viêm ở da và sự kết hợp liệu pháp kháng H1 với cimetidin có hiệu quả hơn hẳn trong điều trị mày đay mạn tính vô căn và một số thể mày đay khác (Negro-Alvarez JM, 2001). Ngoài ra, sự phối hợp thuốc kháng histamin H1 và kháng H2– chất ổn định tế bào bón giúp cải thiện một phần bệnh mastocytosis.
Tác dụng phục hồi miễn dịch
Hiệu quả phục hồi miễn dịch của cimetidin đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu trên một số nhóm bệnh, bao gồm nhiễm trùng kháng trị, u sùi dạng nấm, melanoma ác tính hay bệnh mô liên kết-mạch máu [100]. Trong điều trị herpes simplex, herpes zoster, cimetidin có thểgiúp phục hồi miễn dịch, chống ngứa và kháng virus vì vậy giúp giảm đau và lành vết thương nhanh hơn.
Thụ thể histamin H2 hiện diện ở những tế bào lympho T điều hòa miễn dịch. Vì vậy khả năng phục hồi miễn dịch của cimetidin được cho là do sự chặn những thụ thể này. Điều này dẫn đến sự tăng sinh các tế bào sản xuất kháng thể và nâng cao cả đáp ứng miễn dịch dịch thể lẫn tế bào.
Bệnh da do tăng bạch cầu ái toan
Trong điều trị bệnh eosinophilic fasciitis, viêm nang lông mụn mủ do tăng bạch cầu ái toan cimetidin đã mang lại một số thành công. Hiệu quả này có thể là kết quả của mối tương quan giữa histamin, tế bào bón và tế bào ái toan trong bệnh dị ứng.
Cimetidin trong bệnh ngứa và tính toàn vẹn của da
Cimetidin từng được sử dụng trong các nghiên cứu làm giảm ngứa ở bệnh nhân suy thận mạn, trong hội chứng tăng sinh đa hồng cầu, chứng ngứa do bệnh Hodgkin, ngứa sau tổn thương bỏng. Hầu hết các bệnh nhân đều giảm ngứa rõ rệt, sự nâng cao miễn dịch qua trung gian tế bào có lẽ là yếu tố giúp cải thiện tình trạng này [100]. Cimetidin uống đẩy nhanh sự hồi phục chức năng của hàng rào bảo vệ da sau tổn thương trong môi trường khô, hanh (Ashida Y, Denda M, Hirao T, 2001) .
Hiệu quả kháng androgen
Vigersky và cộng sự cho 5 bệnh nhân nữ bị chứng rậm lông (bốn trong số đó bị buồng trứng đa nang và một là rậm lông vô căn) uống cimetidin 300mg/lần/ 5 lần/ngày sau 3 tháng nhận thấy giảm tỉ lệ mọc lông từ 49-86% ở bốn trong năm người. Những tác giả trên cho rằng hiệu quả kháng androgen của cimetidin là do sự ức chế dihydrotestosterone gắn vào thụ thể androgen.
Porphyrin cấp tính không liên tục
Cimetidin được đề nghị là điều trị thứ hai trong bệnh porphyrin cấp không liên tục. Với liều 800mg/ngày, cimetidin có hiệu quả ngừa những đợt cấp bằng cách duy trì hoạt động ức chế sự tổng hợp ALA ở mức thấp nhất (Inimioara MC, Violeta Sapira, và cộng sự 2012).
Ức chế độc tính của Dapson
Cimetidin giảm sự oxy hóa ở gan của dapson thành hydroxylamine, vì vậy giảm sự hình thành methemoglobin trong máu. Chiến lược này cho phép duy trì việc uống dapson liều cao hàng ngày, ngay cả khi vượt quá 200mg/ngày (Coleman MD, Coleman NA,1996).