Khái niệm
Đau cánh tay chỉ là một phần chi trên tức là từ vai trở xuống, cổ tay trở lên (không bao gồm bàn tay và ngón tay) phát sinh đau nhức.
Chứng này Kinh mạch thiên – Sách Linh khu đã ghi chép rất sớm: “Bên trong mặt trước cánh tay đau và lạnh”. “Bắp thịt phía trước vai đau”, “bắp tay trước vai và phía ngoài cánh tay đau…”. Các y thư nhiều đời cũng ghi chép nhưng tất cả không rời Kinh mạch thiên – Sách Linh khu bàn đến những bộ vị tuần hành của các kinh mạch Thủ tam âm, Thủ tam dương đi qua, khí huyết lưu thông không thuận lợi, kinh khí bị ứ trệ, mạch lạc tê nghẽn không thông thì đau gây nên bệnh.
Chứng Đau cánh tay cũng có thể xuất hiện ở một số bệnh sử nội tạng như “Tạng phí pháp thời luận – Sách Tố vấn có viết: Bệnh ở Tâm… phía trong cánh tay đau đó là Tâm mạch bị ứ nghẽn dẫn đến vùng vai tay phản xạ gây đau nhức” có thể tham khảo ở mục “Vai không cất nhắc được”.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
- Đau cánh tay do phong hàn thấp tý: Có chứng đau nhức ở cơ bắp gân mạch và khớp xương cánh tay hoặc sưng trướng tê mỏi. Do phong thắng thì đau nhức lcn lỏi, lúc đau ở trên, lúc đau ở dưới, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù, Do hàn thắng thì đau khá nặng, lớp da ở cục bộ lạnh gân mạch căng thẳng, rêu lưỡi trắng, mạch Khẩn. Nếu là thấp thắng thì đau nhức nặng nề, cục bộ hơi sưng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu, Nếu là nhiệt thắng thì nóng rát và đau, cục bộ sưng đỏ, rêu lưỡi vàng , mạch Sác.
- Đau cánh tay do khí huyết bất túc: Có chứng cánh tay tê mỏi và đau nhưng chủ yếu là tê mỏi, cánh tay yếu vô lực, da dẻ không nhuận, đồng thời kiêm các chứng đầu choáng mắt hoa, tinh thần mỏi mệt yếu sức, ăn không thấy ngon, lưỡi nhợt, rêu lưỡi mỏng, mạch Tế Nhược.
- Đau cánh tay do ngoại thương ứ huyết: Có chứng Đau cánh tay, cục bộ sưng trướng, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền. Nếu ốm lâu khí hư, huyết bị ứ trệ thì da thịt cục bộ tê dại cấu không biết đau, teo cơ, rêu lưỡi mỏng nhớt hoặc rìa lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Tế Huyền hoặc Tế sắc.
- Đau cánh tay do đờm thấp lưu ở kinh mạch: Có chứng cánh tay đau và nặng, lớp da trướng hơi sưng đồng thời cơ thể ớn lạnh, chân tay lạnh, choáng váng buồn nôn, ngực khó chịu, đại tiện nhão, không khát nước, lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Nhu hoặc Nhu Hoãn.
Phân tích
– Chứng Đau cánh tay do phong hàn thấp tý: Bệnh phần nhiều do ngoại cảm tà khí phong hàn thấp xâm phạm vào gân mạch khớp xương cơ bắp cánh tay dẫn đến kinh lạc bị vít nghẽn, khí huyết vận hành không thông thì đau phát sinh chứng Tý. Tý luận – sách Tố vấn viết: “Ba khí phong hàn thấp xô đến hợp lại mà thành Tý. Phong khí thắng là Hành khí, hàn khí thắng Thống tý, Thấp khí thắng là Trước tý” Vì ba khí đều có sự thiên thắng cho nên hình thức biểu hiện lâm sàng của chứng đau cánh tay cũng không giống nhau. Phong khí thắng thì đau nhức len lỏi, lúc ở trên, lúc ở dưới, hàn khí thắng thì đau nhức khá nặng, lớp da cục bộ lạnh, hàn ngưng mạch sắc. vả lại tính của hàn là co rút cho nên gân mạch ở cánh tay co cứng và đau, Thấp khí thắng thì đau mỏi nặng nề, cục bộ phù thũng, thấp là âm tà, tính của nó dính nhớt cho nên đau và mỏi nhiều. Phong là dương tà dễ hóa táo nhiệt, hàn cực và thấp lấn át cũng có thể hóa nhiệt hoặc là thể trạng vốn dương thịnh đều có thể hình thành chứng Nhiệt tý. Đau cánh tay do Nhiệt tý thì đau nóng rực, cục bộ sưng đỏ, lâm sàng nên dựa vào tính chất, mức độ và các hình thức biểu hiện của sự đau nhức để chẩn đoán phân biệt. Nếu phong khí thắng điều trị theo phép khư phong thông lạc, tán hàn trừ thấp cho uống phòng phong thang gia giảm. Nếu hàn khí thắng điều trị theo phép tán hàn giảm đau, khư phong trừ thấp dùng phương Ô đầu thang gia giảm. Nếu thấp tý thắng điều trị theo phép trừ thấp thông lạc, khư phong tán hàn dùng phương Khương hoạt thắng thấp thang gia giảm. Nếu là chứng Nhiệt tý điều trị nên thanh nhiệt thông lạc khu phong thắng thấp cho uống Bạch hổ gia Quế chi thang gia giảm.
– Chứng Đau cánh tay do khí huyết bất túc: Phần nhiều ở thể trạng hư ốm lâu, Tỳ Vị suy tổn, nguồn sinh hóa khí huyết bất túc không có gì để nuôi dưỡng khớp xương gân mạch và cơ bắp cánh tay cho nên cánh tay đau mỏi tê dại và chủ yếu là tê mỏi khớp xương gân mạch yếu ớt, da dẻ không tươi, tinh thần mỏi mệt yếu sức, lại vì khí huyết bất túc, công năng chống trọi với ngoại tà giảm sút dễ bị phong hàn thấp tà xâm phạm cho nên hay bị chứng đau cánh tay, lưỡi nhợt rêu lưỡi mỏng, mạch Tế Nhược. Điều trị nên bổ ích khí huyết, điều lý Tỳ Vị cho uống Bát trân thang gia giảm. Cũng cần nêu rõ khí huyết hư suy thì khả năng chống bệnh yếu dễ bị ba khí phong hàn thấp xâm phạm tức là có kiêm cả ngoại tà như sách Tế sinh phương viết: “Đều là do thể trạng yếu, tấu lý thưa hở lại bị nhiễm phong hàn thấp khí mà thành chứng Tý “Cho nên cần phải chiếu cố trong điều trị lâm sàng.
Chứng Đau cánh tay do khí huyết bất túc chẩn đoán phân biệt với chứng Đau cánh tay do phong hàn thấp tý: Loại trên thuộc hư tất phải có hư chứng ở toàn thân bệnh nặng thì phải bổ hư, tuy ngoại tà nhân hư mà dễ xâm nhập vẫn cần phải phù chính khư tà. Loại sau là thuộc chứng thực, đau cánh tay thường xuất hiện đơn độc ít khi xuất hiện chứng trạng toàn thân, chủ yếu phải dùng phép khư tà. Đó là điểm chẩn đoán phân biệt của hai chứng không mấy khó khăn.
– Chứng Đau cánh tay do ngoại thương huyết ứ:
Phần nhiều do vấp ngã ngoại thương gây nên, cánh tay đau và sưng trướng không mó vào được hoặc kiêm cả cơ bắp gân mạch khớp xương bị tổn hại phá rách, huyết không theo đường kinh mà chầy tràn ra ngoài cho nên ứ huyết tích ở trong, cục bộ sưng trướng tím bầm, không thông thì đau. Điều trị theo phép hoạt huyết thông lạc khư ứ sinh tân dùng phương Đào hồng Tứ vật thang gia giảm. Lại có chứng Đau cánh tay do phong hàn thấp tý khác, bệnh đã kéo dài lạc mạch bị vít nghẽn khí huyết vận hành không thông dẫn đến kinh khí tê nghẽn, khí trệ thì huyết ứ nên mới có câu “Bệnh lâu tất do ứ” Có những triệu chứng da dẻ cấu không biết đau, không tươi nhuận hoặc teo cơ, đó là mạch lạc bị ứ nghẽn, khí huyết không được nuôi dưỡng gây nên, điều trị nên hành ứ hoạt huyết, khơi thông kinh lạc cho uống Đào hồng Tứ vật thang gia Ô tiêu xà,
Toàn yết, Địa miết trùng, Địa long là những thuốc thuộc loại trùng để điều trị rất tốt.
– Chứng Đau cánh tay do đờm thấp khu trú ở đường kinh: Bệnh phần nhiều do Tỳ Thận dương hư, đờm ẩm ứ ở trong dồn rót vào kinh mạch làm ngăn trở sự vận hành của khí huyết gây nên chitog đau cánh tay. Nếu nghiêng về Tỳ hư thì thanh dương không thăng cho nên có các chứng choáng váng, ngực khó chịu, buồn nôn, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoãn điều trị nên kiện Tỳ hóa ẩm, khư đàm hòa lạc cho uống Linh quế truật cam thang hợp với chỉ mê phục linh hoàn gia giảm.Nếu nghiêng về Thận hư thì do mất chức năng sưởi ẩm có chứng thân thể lạnh, tay chân lạnh da trướng và hơi sưng, lưỡi nhợt bệu, mạch Trầm Nhu. Điều trị nên ôn bổ Thận dương tiêu ẩm hóa đờm cho uống Kim quỹ Thận khí hoàn hợp với Nhị trần thang gia giảm.
Trên lâm sàng chữa chứng Đau cánh tay trên cơ sở những biện chứng luận trị đã nói ở trên có thể phối hợp với các vị thuốc có tác dụng rẽ ngang vào cánh tay hoạt huyết dưỡng huyết, hòa doanh thông lạc như Tang chi, Quế chi, Ty qua lạc, Khương hoàng, Kê huyết đằng… Nếu lâu ngày không khỏi tất phải có những ứ nghẽn ẩn náu ở kinh toại nên áp dụng phép dùng các loại trùng để mà SƯU tâm tận hang ổ của bệnh mới có hiệu quả.
Trích dẫn y văn
– Khớp xương tay sưng đau, mạch sắc Sác là do có ứ huyết (Đan khê tâm pháp – Thống phong).
Nếu như cánh tay là nơi phân bố lục kinh cho nên khi bị bệnh cần phân biệt cho đúng đường kinh mắc bệnh Còn như sự đau nhức tuy không ngoài các tà khí phong hàn thấp nhiệt nhưng cần chú ý là tà sở dĩ quây rối là do chính khí tất hư vốn là có con đường dẫn tà khí tới… nếu cánh tay gắn liền với vai lưng đau mỏi, hai tay mềm yếu và tê dại đó là đờm ẩm dồn dót vào tứ chi mà phát bệnh (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc- Kiên nhu trửu tý uyển thử bệnh nguyên lưu).