Chứng đau ngực (Hung tý) là chứng tắc ở ngực không thông, có biểu hiện chính là khí ở trong ngực tắc và đau ngực. Thiên quyết bệnh Sách Linh khu gọi là chân tâm thông tức là đau ngực nặng, còn thể nhẹ chỉ có thấy ngực đầy nghẽn, (Kim quỹ yếu lược) Nguyên nhân thường là khí dương ở trong ngực không phân bố được vì bị khí âm thượng nghịch chiếm mất vị trí của khí dương, nói khác đi là trong ngực dương khí bất túc và âm hàn thịnh làm trở ngại cho việc dương phân bố ở trong ngực. Cũng có thể do cả khí, âm ở ngực đều hư gây nên. Các chứng bệnh của động mạch vành cơ tim (cơn đau thắt ngực nhồi máu cơ tim…) thuộc phạm vi chứng hung tý.
Mục lục
Hàn thịnh là trở ngại khí dương ở ngực
Triệu chứng: Ngực đầy, khó thở cấp, đoản khí, thở ra hít vào khó khăn, ngực đau, mạch thốn khẩu trầm trì. Đó là do âm hàn thịnh làm khí dương không vận hành được và tắc lại gây nên.
Phép điều trị: Tân ôn thông dương.
Phương thuốc: Qua lâu giới bạch, bạch tửu thang (Kim quỹ yếu lược)
Qua lâu 12g (1 quả) Giới bạch 12g
Rượu trắng lượng vừa đủ sắc uống.
Đờm ẩm làm trở ngại khí dương ở ngực.
Triệu chứng: Thêm ngực đau lan ra lưng không nằm được.
Phép điều trị: Thông dương trục đờm
Phương thuốc: Qua lâu giới bạch bán hạ thang (Kim quỹ yếu lược)
Qua lâu 12g Giới bạch 9g
Bán hạ 12g
Rượu trắng vừa đủ sắc uống.
Đờm khí kết ở trong ngực làm khí không giáng, nghịch lên.
Triệu chứng: Trong tim tức đau, khí kết ở trong ngực, ngực đầy, đau ở sườn thốc lên tim. Đó là do đờm khí kết tụ ở ngực, khí nghịch lên mà không giáng được.
Phép điều trị: Thông dương, giáng khí, khử đờm.
Phương thuốc: Chỉ thực giới bạch quế chi thang (Kim quỹ yếu lược)
Chỉ thực | 12g | Hậu phác | 12g |
Giới bạch | 9g | Quế chi | 6g |
Qua lâu | 12g |
Đờm khí kết tắc, làm khí cơ không thông.
Triệu chứng: Khí tắc ở trong ngực, nằm ngồi đều khó chịu. Đó là do đờm kết với khí làm tắc đường vận hành của khí cơ.
Phép điều trị: Tuyên khí khai uất.
Phương thuốc: Quất chỉ khương thang (Kim quỹ yếu lược)
Quất bì 12g Chỉ thực 12g
Sinh khương 12 g
Âm tà nghịch lên.
- Triệu chứng: Tắc ở trong tim, khí nghịch, tim đau như treo lên.
Phép điều trị: Thông dương tán kết.
Phương thuốc: Quế chi Sinh khương Chỉ thực thang.
Quế chi 12g Sinh khương 12g
Chỉ thực 12g
- Ngực đau kịch liệt, từ tim xuyên ra ngực, từ lưng xuyên vào tim.
Đó là do khí đại hàn trực tiếp đánh vào tim ngực.
Phép điều trị: Công trục gấp âm tà.
Phương thuốc: Ô đầu xích thạch chi hoàn (Kim quỹ yếu lược)
Ô đầu 1 phần Xích thạch chi 2 phần
Bán hạ 1 phần Phụ tử chế 1 phần
Can khương 1 phần Thục tiêu 1 phần
Hoàn mật bằng hạt ngô đồng, ngày uống 3 lần mỗi lần 1 hoàn.
Ý nghĩa: Các hài thuốc trên: Qua lâu, Bán hạ, Chỉ thực để hạ khí phá kết trừ đờm để thông tý (tắc). Quế chi, Giới bạch để thông dưdng. Trần bì, Bán hạ để trừ đờm thấp, Hậu phác để hạ khí trừ mãn. ô đầu, Phụ tử, Can khương, Thục tiêu đại nhiệt để công trục đại hàn để thông ý (tắc)
Hàn thấp đều thịnh.
Triệu chứng: Hung tý lúc đau, lúc hết, khi hoãn thì không đau, khi cấp lại đau.
Phép điều trị: Ôn hóa hàn thấp.
Phương thuốc: Ý dĩ phụ tử tán (Kim quỹ yếu lược)
Ý dĩ 30g Phụ tử 6g
Ý nghĩa: Ý dĩ để lợi thấp. Phụ tử hợp Ý dĩ để ôn dương tán hàn lợi thấp.
Khí trệ huyết ứ
Triệu chứng: Trên ngực đau nhói như bị đâm, đoản khí, tâm phiền không yên, rêu lưỡi hơi dày, mạch huyền.
Phép điều trị: Lý khí hoạt huyết hóa ứ.
Phương thuốc: Đan sâm ẩm (Thời phương ca quát) gia
Đan sâm | 5 đồng cân | Đàn hương | 1 đồng cân |
Sa nhân | 1 đồng cân | ||
Thêm: | |||
Thanh bì | 2 đồng cân | Bách hợp | 5 đồng cân |
Ô dược | 2 đồng cân | Uất kim | 2 đồng cân |
Xuyên luyện tử | 3 đồng cân |
Ý nghĩa: Đan sâm để hoạt huyết khứ ứ Đàn hương, Sa nhân để hành khí khai hung chỉ đau.
Phương thuốc: Phức phương đan sâm phiến (Nội khoa học)
Đan sâm 2 lạng Đương quy 1 lạng
Xương bồ 5 đồng cân Giáng hương 5 phân
Tế tân 3phân
Ba vị trên nấu thành cao, hai vị dưới tán mịn, rây kỹ, trộn với cao để làm viên, uống trong một ngày (có thể có tác dụng phụ như khó chịu trong dạ dày, bụng trướng, ỉa lỏng hoặc táo bón). Dùng trong chứng đau thắt ngực (co thắt mạch vành).
Dương hư âm thịnh
Triệu chứng: Tim đau, đoản khí, tim đập, tự hãn, người lạnh, mạch trầm vô lực hoặc kết đại.
Phép điều tri: Trợ dương ích khí.
Phương thuốc: Linh quế truật cam thang
Phục linh 16g Quế chi 12g
Bạch truật 8g Cam thảo 8g
Ý nghĩa: Phục linh để kiện tỳ thảm thấp, Quế chi để ôn dương hóa khí để lợi tiểu, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp, Cam thảo để ích khí, hòa trung.
Phương thuốc: Nhân sâm thang gia vị (Kim quỹ yếu lược)
Nhân sâm 2 đồng cân Bạch truật 3 đồng cân
Can khương 2 đồng cân Cam thảo 2 đồng cân
Thêm Quế chi 2 đồng cân Sắc uống.
Ý nghĩa: Can khương để ôn trung khử lý hàn, Sâm để đại bổ nguyên khí, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp, Cam thảo để ích khí, hòa trung, Quế chi để thông dương.
Khí âm đều hư.
Triệu chứng: Tim đau, khí đoản, tim đập, mồm khô, ít tân dịch, lưỡi đỏ, mạch huyền tế vô lực kết đại. Đó là dương hư không tuyên thông được mạch khí, âm hư không nuôi được tâm huyết.
Phép điều trị: ích khí dưỡng âm.
Phương thuốc: Chích cam thảo thang (Thương hàn luận)
Cam thảo 3 đồng cân Sinh khương 3 đồng cân
Nhân sâm 2 đồng cân Sinh địa 5 đồng cân
Quế chi 3 đồng cân A giao 3 đồng cân
Ma nhân 3 đồng cân Mạch môn 3 đồng cân
Đại táo 5-10 quả
Ý nghĩa: Thảo, Sâm, Táo để ích khí bổ tâm tỳ; Địa, Mạch, A giao, Ma nhân để dưỡng tâm bổ huyết, nhuận phế sinh tân; Khương Quế để thông dương phục mạch.
Dương khí suy vi.
Triệu chứng: Suyễn thở không nằm được, mặt bệch và mồ hôi lạnh, chân tay quyết lạnh, mạch trầm tế (Vi). Đó là dương suy không ôn dưỡng được trong ngoài.
Phép điều tri: Hồi dương cứu nghịch.
Phương thuốc: Tứ nghịch thang (Thương hàn luận)
Cam thảo 6g Can khương 6-9g
Sinh phụ tử 6-10g
Ý nghĩa: Phụ tử nhằm bổ mệnh môn hỏa thông cả 12 kinh để thông dương trục hàn. Can khương để ôn trung, khu lý hàn. Cam thảo chích để giải độc Phụ tử, hòa hoãn tính cay của Khương Phụ, hợp với nhau để hồi dương cứu nghịch. Có thể gia Nhân sâm 6g để bổ nguyên khí, ích khí hồi dương cùng tứ nghịch để cứu nghịch cố thoát.
Như vậy ta có thể thấy rõ Hung tý có hai loại thực và hư. Thực là do các yếu tố gây bệnh hàn thịnh, đồm, ẩm, thấp làm tắc ngực, làm khí dương trong ngực tắc không thông, làm khí trệ huyết ứ. Hư là do dương hư, khí hư, âm hư, không đủ sức nuôi dưỡng, sưởi ấm trong ngoài, trên cơ sở đó âm hàn có thể làm bệnh thêm nặng.