Ngoài CD4 và VL, cũng nên theo dõi một số chỉ số khác ở bệnh nhân HIV. Các khuyến cáo sau áp dụng cho bệnh nhân không triệu chứng với kết quả xét nghiệm thường quy bình thường, điều trị ổn định được vài tháng hoặc bệnh nhân không điều trị ARV. Tất nhiên nếu bắt đầu hoặc thay đổi điều trị, hoặc nếu bệnh nhân có than phiền gì, cần theo dõi thường xuyên hơn và chuyên sâu hơn.
Tùy từng vấn đề mà thêm các xét nghiệm cần thiết. Cũng cần khám lâm sàng thường xuyên vì có thể phát hiện ra những biểu hiện quan trọng như sarcoma Kaposi, sùi mào gà hoặc nấm họng. CD4 càng thấp, bệnh nhân càng cần khám thường xuyên hơn.
Bảng 11.2: Các xét nghiệm tối thiểu hàng năm ở bệnh nhân ổn định không triệu chứng | ||
Bệnh nhân điều trị ARV | Bệnh nhân chưa điều trị | |
Công thức máu, LDH, ALT, AST, creatinine, bilirubin, AP, lipase, GGT, glucose | 4-6 x | 2-4 x |
VL | 4 x | 2-4 x |
Số lượng CD4 | 2-4 x | 2-4 x |
Lipids | 1-2 x | 1 x |
Khám lâm sàng | 2-4 x | 1-2 x |
Khám phụ khoa | 1 x | 1 x |
Soi đáy mắt nếu CD4< 200/µl | 2-4 x | 4 x |
Ở bệnh nhân có CD4 dưới 200, chúng tôi thường soi đáy mắt mỗi 3-6 tháng để loại trừ viêm võng mạc do CMV. Phối hợp với một bác sỹ nhãn khoa có kinh nghiệm về HIV là rất quan trọng. CD4 càng cao, càng ít phải soi đáy mắt – theo chúng tôi, khi CD4 đã về bình thường, có thể không cần soi đáy mắt nữa. Ngược lại, khám phụ khoa và làm phiến đồ PAP luôn được khuyến cáo bất cứ ở CD4 nào. Nhiều chuyên gia cũng khuyến cáo khám trực tràng (kèm soi trực tràng) để phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư hậu môn.
Tuy nhiên, cần áp dụng và xem xét các khuyến cáo đó rất thận trọng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, khi tình trạng miễn dịch đã tốt, trừ khi có nghi ngờ, không nhất thiết phải thường xuyên chụp X quang, siêu âm (trừ bệnh nhân viêm gan mạn tính), xét nghiệm huyết thanh hoặc đo lactate.
Làm điện tâm đồ hàng năm chỉ được chỉ định ở bệnh nhân có nguy cơ cụ thể (xem chương “HIV và bệnh tim”). Xét nghiệm tuberculin (Mantoux) chỉ cần lặp lại hàng năm nếu ban đầu kết quả âm tính.