Tên khác: bệnh vàng da xuất huyết do xoắn khuẩn: bệnh Weil, vàng da truyền nhiễm có sốt tái phát tăng, vàng da truyền nhiễm do xoắn khuẩn.
Mục lục
Định nghĩa
Nhóm các bệnh từ động vật truyền sang người do xoắn khuẩn; có sốt hai pha, đau cơ, dấu hiệu màng não và trong trường hợp vàng da xuất huyết có viêm gan thận.
Căn nguyên
Mầm bệnh là các vi khuẩn loại Lepstopira interrogans gồm nhiều typ huyết thanh (ictero- haemorrhagiae, grippo-typhosa, ponoma, bataviae, canicola v.v…). Nhiều loài lepstopira gây bệnh đồng thời có ái tính với gan, thần kinh và thận. Trong thực nghiệm, chúng cũng gây hội chứng trên ở chuột lang.
Dịch tễ học
Các loài gậm nhấm là túc chủ hay gặp và có thể chứa phần lớn các xoắn khuẩn. L. ictero- haemorrhagiae chủ yếu được phát tán trong các chất thải của chuột ở công. Chó là nguồn mang L. canicola. Lợn là nguồn mang L. pomona. Bò và các loài có móng guốc là nguồn L. mitis. Các loài chim, đặc biệt là các loài chim có màng ở chân sống ở sống, hồ ao có thể mang xoắn khuẩn đi rất xa khi di cư và làm nước bị nhiễm. Người bị nhiễm do tiếp xúc trực tiếp với động vật mang vi khuẩn hay gián tiếp qua nước và đất bị nhiễm nước tiểu động vật. Xoắn khuẩn xâm nhập qua da (vết thương, vết nứt, da bị dập) hay qua niêm mạc (mắt, mũi, họng). Hầu như không có lây trực tiếp từ người sang người; nhưng nước tiểu người bệnh có vi khuẩn trong 10-20 ngày.
Bệnh tản phát hay có tính nghề nghiệp ở công nhân vệ sinh cống rãnh (bệnh xoắn khuẩn vàng da xuất huyết), ở nông dân làm việc trên đất bị nhiễm khuẩn trong ruộng hay trong vườn mía, người chăn nuôi lợn. Cũng có thể bị mắc bệnh khi bơi, nhất là trong nước bị nhiễm. Xoắn khuẩn có thể sống lâu trong nước và trong môi trường ẩm. Phân bố theo địa dư phụ thuộc vào động vật mang vi khuẩn. Sốt vàng da xuất huyết ít được thấy ở châu Âu; chủ yếu thấy ở công nhân vệ sinh công và thợ mỏ. Ớ Pháp, bệnh xuất hiện nhiều nhất vào mùa hè. Các vụ dịch nhỏ có thể do nước bể bơi bị nhiễm.
Giải phẫu bệnh
Mức độ tổn thương tuỳ theo typ huyết thanh. Có thể thấy sưng hạch; lách to; viêm gan, xoang gan ứ máu chứa đầy lympho và bạch cầu đa nhân; sung huyết màng não và tổn thương sợi cơ vân, đôi khi sợi cơ trong và có hốc. Nếu thận bị tổn thương, thận sưng thận to, màu xám đen và có tổn thương ở ống lượn xa. Có thể thấy xuất huyết ở các tạng.
Triệu chứng
Ủ BỆNH: 7-13 ngày.
GIAI ĐOẠN ĐẦU (nhiễm khuẩn huyết):
Khởi phát đột ngột, sốt, rét run, nhức đầu, đau cơ, đau khớp.
Chán ăn, buồn nôn, nôn trong một nửa số trường hợp.
Dấu hiệu màng não, viêm kết mạc sung huyết (dấu hiệu đặc trưng).
Hạ huyết áp, tim tương đối chậm, đôi khi có ngoại ban.
Triệu chứng thận: thiểu niệu, trụ niệu, protein niệu, đái ra máu, urê huyết tăng.
Gan to, lách to, sưng hạch tạng.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI: sau một thời kỳ lui bệnh 24-48 giờ (trùng với sự xuất hiện các kháng thể IgM trong máu), bệnh nhân bị sốt lại, thân nhiệt dao động dài ngắn khác nhau. Sau lần lui bệnh thứ nhì thường có đợt sốt mới. Xoắn khuẩn được đào thải theo nước tiểu giữa tuần thứ 2 và tuần thứ 4.
Thể lâm sàng
Thể vàng da xuất huyết (bệnh Weil): do L. ictero-hemorrhagiae hay xoắn khuẩn Inada và Ido. Vàng da xuất hiện từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 6, da màu nghệ, da cam và kết mạc bị sung huyết rất đặc trưng. Gan to vừa phải; triệu chứng chảy máu thường kín đào (chảy máu cam, thời gian chảy máu kéo dài). Trong các thể điển hình, lần lui bệnh thứ nhất xảy ra khi xuất hiện vàng da; sau đó sốt lại từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17 và bệnh lại lui lần thứ hai khi hết vàng da. Có những thể nhẹ không vàng da và có những thể nặng có hội chứng nhiễm khuẩn, màng não nặng, vàng da sớm và tổn thương thận (thiểu niệu hoặc vô niệu, có khi phải lọc máu), đôi khi có triệu chứng tổn thương thần kinh ngoại biên, viêm dây thần kinh thị.
Sốt do xoắn khuẩn của chó (bệnh Stuttgart): do L. canicula có ở chó và chỉ được truyền sang người qua nước tiểu chó. Hiếm gặp vàng da. Dấu hiệu màng não nặng, đôi khi bị viêm đa dây thần kinh.
Sốt ở người nuôi lợn (bệnh Penso): do L. pomona có ở lợn. Gây bệnh ở người nuôi lợn và trùng hợp với sự xuất hiện các cơn động kinh do xoắn khuẩn ở lợn. Hội chứng màng não, rối loạn tiêu hoá, ỉa chảy, không có vàng da. Tiến triển lành tính.
Sốt đầm lầy: do L. grippo- typhosa. Sốt, dấu hiệu màng não, rối loạn tiêu hoá, đôi khi có vàng da, tổn thương ở nhãn cầu, liệt dây thần kinh sọ.
Sốt đồng ruộng (L. bataviae).
Sốt đồng mía (L. australis).
Xét nghiệm cận lâm sàng
Tìm xoắn khuẩn (giai đoạn nhiễm khuẩn huyết): cấy máu cho kết quả dương tính ngay từ ngày thứ 3 và cho đến tuần thứ 2 ở 90% số bệnh nhân. Tìm thấy xoắn khuẩn trong nước tiểu (soi trực tiếp dưới kính hiển vi nền đen) hay cấy nước tiểu chỉ dương tính ở thời kỳ lui bệnh, giữa tuần thứ 2 và tuần thứ 4.
Phản ứng huyết thanh:
+ Chẩn đoán huyết thanh Martin-Petit: phản ứng tan ngưng kết cho phép xác định typ huyết thanh và cho kết quả dương tính từ ngày thứ 10. Hiệu giá ngưng kết cao trong nhiều năm (chỉ riêng hiệu giá tăng lên sau 15 ngày đã có giá trị chẩn đoán), test vi ngưng kết cũng dựa trên nguyên lý này.
+ Test ELISA rất nhậy, có thể phát hiện kháng thể ngay từ ngày thứ 4.
Tiêm truyền máu hay dịch não tuỷ cho chuột lang trong tuần đầu tiên và tiêm truyền nước tiểu trong tuần thứ 3.
Máu: ở thể vàng da xuất huyết có thiếu máu, tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, giảm prothrombin máu. Bilirubin huyết tăng, urê huyết tăng.
Nước tiểu: protein niệu, trụ niệu, hồng cầu niệu, sắc tố mật.
Dịch não tuỷ: hay có rối loạn tế bào (lympho).
Chẩn đoán phân biệt
Cúm, viêm màng não do virus, viêm gan virus, sốt hồi quy, sốt vàng.
Tiên lượng
Tốt, trừ các thể có vàng da (tỷ lệ tử vong là 15% nếu không được điều trị).
Điều trị
Kháng sinh: chỉ có tác dụng ngay lúc đầu (trước ngày thứ 4). Với các thể nặng: benzylpenicillin 5-10 triệu đơn vị/ngày, theo đường tĩnh mạch chia làm nhiều lần, 6 giờ một lần hoặc tetrayclin 0,5 g; 6 giờ một lần.
Điều trị toàn thân: chăm sóc tăng cường, nhất là bồi phụ nước và điện giải có vai trò vô cùng quan trọng đối với thể vàng da xuất huyết; lọc máu nếu bị suy thận, truyền máu nếu bị chảy máu.
Phòng bệnh (thể vàng da xuất huyết): diệt chuột, kiểm tra nước bể bơi. Tiêm phòng cho người có nguy cơ, nhất là công nhân nạo vét cống.