Papilloma virus hay “Virus papilloma người” (Human Papilloma Virus, HPV) CÓ 50 typ, là các virus ADN thuộc họ papovavirus.

Các virus này xâm nhập vào tế bào biểu mô da và niêm mạc. Kém vệ sinh, ẩm ướt và kích thích tại chỗ là điều kiện tốt cho mắc bệnh.

Sùi mào gà

Tên khác: mào gà sinh dục, mào gà, mụn cóc sinh dục, sùi hoa liễu.

Căn nguyên: nhiễm papilloma­virus typ 16 (HPV 16); đôi khi còn do các typ 5, 6, 8, 11, 18. Các typ 16, 18, 31, 35 thường có vai trò trong ung thư cổ tử cung.

Triệu chứng: tổn thương ở xung quanh hậu môn, âm hộ hay viêm niêm mạc bao quy đầu; bề mặt sùi không đều (như mào gà). Nhiễm virus do tiếp xúc trực tiếp, thời kỳ ủ bệnh từ 1 đến 6 tháng. Do nguy cơ dẫn đến ung thư tổ tử cung cao, nên điều trị sớm phụ nữ bị mắc. Các tổn thương có thể ở nhiều nơi nếu bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.

Thuốc diệt thể phân liệt trong máu

Là cơ sở của điều trị cơn sốt rét cấp và một vài thuốc cũng được dùng để dự phòng. Trong số này có các amino-4 quinolein (chloroquin và amodiaquin) và các arylamino-ălcol (mefloquin và quinin). Các thuốc này diệt các thể vô tính của ký sinh trùng trong máu nhưng không có tác dụng lên cac thế trong gan. không chữa được bệnh do Plasmodium vĩvax va p. ovale là các thể mà ký sinh trùng có thể nằm yên nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.

Nhiều thuốc chống chất chuyển hoá cũng có tác dụng diệt thể phân liệt (nhất là pyrimethamln, các sulfamid và các sulfon); một vài thuốc kháng sinh cũng có tác dụng này (đặc biệt là các tetracyclln). Các thuốc này có tác dụng chậm hơn và ít có ý nghĩa nếu được chỉ sử dụng một mình.

Ngược lại, một số thuốc chống chất chuyển hoá kết hợp với nhau lại có tác dụng hiệp đồng: pyrimethamln kết hợp với một sulfamid (Fansidar®) hay với một sulfon cổ tác dụng diệt thể phân liặt mạnh.

Người ta chủ yếu dùng các tetracyclln để bổ trợ cho qulnin trong trường hợp p. falciparum kháng lại nhiều thuốc.

Thuốc diệt thể phân liệt ở mô

Proguanll và chlorproguanil (một thuốc tương tự, có thời gian bán huỷ dài hơn nhiều) là những tiền châĩ, khi vào gan biên đổi thành cycloguanil là một chất có hoạt tính. Các thuốc này được coi là có tác dụng phòng ngừa từ căn nguyên vì có tác dụng lên các thể trong gan trước khi vào hổng cầu của ký sinh trung, nhẩt là các thể của p. falciparum. Hiện nay, người ta đăng nghiên cứu liều dung của 2 thuốc này va đang tìm cách xác định sự nhậy cảm (ít nhât là tạm thời) cua các thể non trong gan của p.vivax và của p. malariae với thuốc. Các thể nằm yên của p. ovale và p. vivax trong gan không nhậy cảm với các thuốc này.

Trái VỚI proguanil, prlmaquin có tác dụng loại trừ các thể nằm yên của p. ovale và của p. vivax vẫn còn trong gan. Sau khi đa được điều trị bang chloroquin. Tuy vậy, do độc tính của thuốc và nhất là do nguy cơ gay tan huyết ố người bị thiếu glucose-6-phosphat dehydrogenase nên prlmaquln không được dùng để phòng bệnh.

Các tetracyclin có tác dụng lẽn các thể ngoại tế bào và trong tế bào của p. falciparum. Tác dụng này ít có ứng dụng lâm sàng do độc tính nội tại của thuốc, nhất la đối với thai và trẻ nhỏ và vì thuốc diệt vi khuẩn chí bình thường ở ruột. Tuy vậy, người ta đã dùng doxycyclin để phòng bệnh ngắn hạn cho người lớn (trừ phụ nữ có marig) phải đen vung có sốt rét kháng nhiều thuốc.

Điều trị cơn sốt rét
Tất cả các thể, trừ thể do p. falciparum kháng ohloroquinChloroquin, liều ban đầu 600 mg (base), 6 giờ sau dùng 300 mg, 300 mg/ngày trong 2 ngày sau (1,5 g trong 3 ngày

Để phòng tái phát do p.vivax hay do p. ovale, sau trị liệu này cần điều trị triệt để.

Thể do p. falciparum kháng chloroquinQuinln 600 g (base) 8 giờ một lần, trong 3 ngày. Ngày thứ 4 uống một liều suy nhất sultădoxin (500 mg) + pyrimethamin(25mg); hoặc Medoquin 2 viên 250 mg, 8 giờ một lần; ngày 3 lần (tất ca là 6 viên hay 1,5 g); nếu cân nặng dưới 60 kg uống 2 viên+2 viên+1 viên cách nhau 8 giở (tất cả là 5 viên hay 1, 25 g).

Không cần thiết phải điều trị triệt để.

Thể ác tínhNếu bệnh nhân không nuốt được, truyền quinin vào tĩnh mạch 10/kg (base) trong 4 giờ. Cứ 8-12 giờ một lần. Pha thuốc trong dung dịch glucose. Cho tre nhỏ: 25 mg/kg trong 24 giờ; nếu suy thận, giảm 30- 50% liều.

Thời gian Q -T trên điện tâm đồ kéo dài cho biết là quá liều.

Bù nước, điều chỉnh rối loạn điện giải; truyền tĩnh mạch dexamethason 10-20 mcỊ/24 giờ nếu bị sốc và /hoặc có phù não. Thẩm phân thận nếu thieú niêu. Không dùng quinln trorg sốt nôn ra mặt, đái ra hemoglobin.

Phòng bị nhiễm: trước kia, người ta cho rằng phòng sốt rét bằng thuốc là biện pháp có ích và không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Dịch tễ học hiện nay và việc thiếu các thuốc phòng bệnh hoàn toàn chắc chắn và có hiệu quả đã cho thấy tầm quan trọng của việc phòng bị nhiễm:

Từ lúc hoàng hôn cho đến bình minh: phải mặc quần áo dài, bôi trẽn các phần da hỏ thuốc bôi có permethrin. Không nên đi chơi sau khi măt tròi lăn.

Ban đêm, đóng các cửa và cửa chớp nếu không có lưới che; phun thuốc diệt sâu bọ trong buồng ngủ; ngủ trong màn lành lăn và dắt kỹ; phải tẩm màn với thuốc là dẫn xuất của pỷythre (permethrin).

Chống các vectơ truyền bệnh tại các vùng có bệnh lưu hành: diệt các ổ bọ gậy, muỗi anopheles trưởng thành bằng thuốc diệt cỏn trùng và loại bỏ các ổ nước đọng.

Phòng bằng thuốc: uống thuốc phòng 1 tuần trước khi tới vùng có sốt rét, uống trong thời gian ở đó và sau khi đã rời khỏi vùng có sốt rét phải uống tiếp 4 tuần nữa.

Điều trị cấp cứu: trong trường hợp không có thầy thuốc trong vòng 24 giờ, nếu thấy có rét run, sốt, kèm theo nhức đầu, đau cơ, đau khớp, cần phải uống các “thuốc dự phòng” mang theo. Sau đó phải tớĩ bác sĩ để đảm bảo là đã qua cơn và không có bệnh khác tiềm ẩn. Những ai hay phải đến các vùng có sốt rét cần mang theo “thuốc dự phòng”.

Bệnh do Papillomavirus

 

2 viên 250 mg 8 giờ một lần, uống 3 lần (tổng cộng 6 viên hay 1,5 g)

600 mg (base) sau đó 6 giờ uống 300 mg; 2 ngày  tiếp theo uống 300 mg/ngày (tổng cộng 1,5 g)

Các vùng sốt rét lây truyền yếu- phòng bệnh bằng cách uống thuốc không cần thiết cho người đến

các vùng ít sốt rét và các trung tâm chẩn đoán và điều trị dễ tiếp cận. Nên mang theo“Túi thuốc dự phòng” .

Vùng p. falciparum còn nhậy cảm với thuốc- nên dự phòng bằng chloroquin (300 mg/tuần) ở những vùng p. falciparum còn nhậy cảm với thuốc và ở các vùng chỉ có p.vlvax và/ hay p. malariae.

Vùng còn nhiều nguy cơ bị nhiễm p. falciparum nên phòng bằng chloroquln 300 mg/ tuần hoặc kết hợp chloroquin 300 mg/tuần + proguanil 200 mg/ngày và một “thuốc dự phòng” ở vùng có nhiều nguy cơ bị nhiễm p. falciparum. Dự phòng bằng thuốc có thể không có tác dụng ở một số vùng thuộc Đông Phi và Trung Phi. Nếu có thể bảo vệ được cơ thể không bị muỗi đốt thì không cần phải uống thuốc dự phòng nhưng nên mang theo “thuốc dự phòng” thích hợp.

Vùng có nguy cơ cao bị nhiễm p.falciparum kháng nhiều thuốc rất khó cho lời khuyên nên uống thuốc gi cho những người tới các vùng này, hơn nữa chưa biết rõ về tác dụng phòng bệnh của thuốc. Nếu có thể bảo vệ được cơ thể không bị muỗi đốt thì không cần phải uống thuốc dự phòng nhưng nên mang theo “thuốc dự phòng” thích hợp.

Xét nghiệm cận lâm sàng: tìm papillomavirus: có các “tế bào lõm” điển hình trên tiêu bản phiến đồ âm đạo được nhuộm Papanicolaou, các phương pháp miễn dịch – hoá học mô, PCR cho phép phát hiện hệ gen của virus trong tế bào.

Điều trị: podophyllotoxin (xem thuốc này) hay bôi fluoruracyl tại chỗ. Đốt lạnh bằng nitơ lỏng, đốt điện hay cắt lọc bằng phẫu thuật. Interferon đang được thử nghiệm. Theo dõi bệnh nhân được điều trị và các người có quan hệ tình dục với bệnh nhân để tránh bệnh lan truyền.

Mụn cóc

Tên khác: loạn sản biểu mô dạng mụn cóc.

Căn nguyên: nhiễm papilloma virus (typ 1, 2, 4 hoặc 7)

Triệu chứng: mụn cóc thông thường là một u nhú và tăng sừng hoá có ranh giới rõ ràng, lớn bằng đầu ghim đến bằng hạt đậu to, rắn, màu xám, bề mặt nhô, khu trú ở mu bàn tay hay gan bàn chân, đôi khi quanh móng (mụn cóc quanh móng). Có thể chỉ có một hay có nhiều mụn cóc (tự nhiễm); nói chung thoái lui sau vài tháng.

Điều trị: đốt lạnh, đốt điện, phẫu thuật bằng tia laser.

0/50 ratings
Bình luận đóng