BAN MIÊU (Sâu đậu)
Tên khoa học: Cicindela chinensis Fabricius; Họ (Cicindelideae)
Bộ phận dùng: Cả con. Nguyên con khô, to, không sâu mọt là tốt.
Nếu xông lên mùi hôi thôi thì không dùng được. Những con mới hay có mùi hôi thối, để lâu hay bào chế sẽ hết mùi hôi.
Ở phương Tây thường dùng con ban miêu có tên khoa học là Cantharis vesicatoria Geof; Lytta vesicatoria Fabr, Myrabris sp, cùng họ, bé nhỏ hơn.
Thành phần hóa học: Hoạt chất chính là cantaridin 125%, thường thấy trong máu, bộ sinh dục. Ngoài ra còn có calci phốt phát, acid uric, dầu béo.
Tính vị – quy kinh: Vị cay, tính hàn, độc (bảng A). Vào hai kinh đại trường, tiểu trường.
Chủ trị : Trị tràng nhạc, sang lở, làm thuốc phỏng rạ, cũng có khi dùng để lợi tiểu (ít dùng)
Liều dùng: Ngày dùng 1 – 2 con (0,4 – 0,8g tức là 1 – 2 phân ta)
Theo Tây y: chủ yếu dùng ngoài làm thuốc rộp da.
Kiêng kỵ: cơ thể yếu, bệnh nặng không nên dùng; kỵ: ba đậu, đan sâm và cam thảo.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
Ban miêu là thứ sâu trên cây đậu đen, mình dài độ 2 cm, có từng sọc vàng hoặc sọc đen, mõm nhọn, thân thể có mùi hôi.
– Lấy gạo nếp và mè tẩm nước, trộn lẫn với ban miêu rồi sao cho vàng cháy, lấy ra, ngắt bỏ đầu chân và hai cánh, lấy tóc rối treo lên góc hiên phía đông một đêm rồi dùng thì hết độc (Lôi Công).
– Dùng ban miêu thì bỏ cánh, trộn với gạo nếp sao chín. Nếu dùng sống thì bị thổ tả.
– Trộn lẫn với cám sao qua rồi nấu với giấm. Tán với bột thuốc mà rắc ngoài.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Bỏ đầu, chân và cánh (vì có cạnh sắc), chỉ dùng thân. Lấy gạo nếp tẩm ướt trộn với thân ban miêu, sao lên cho vàng là được. Khi dùng có thể dùng ban miêu bỏ gạo nếp, hoặc dùng gạo nếp bỏ ban miêu (bệnh nhẹ), rồi tán bột trộn với các thuốc bột khác, đùng để bôi ngoài.
– Có người chỉ bỏ
đầu và bỏ ruột (bấu đốt sau cùng rồi rút ra, ruột sẽ ra theo). Khi dùng, sao với gạo nếp 1 – 2 lần để giảm ngộ độc.
Bảo quản: Chưa bào chế phải đựng lọ kín để nơi khô ráo vì dễ bị sâu mọt. Bào chế rồi đựng lọ thật kín, trong tủ kín, có khóa theo quy chế thuốc độc bảng A.