Tên khác: bệnh do Salmonella không phải thương hàn, hoặc bệnh thương hàn nhẹ.
Định nghĩa:
Nhiễm độc-nhiễm khuẩn do ăn phải thức ăn bị nhiễm trực khuẩn thuộc loài Samonella, biểu hiện lâm sàng bởi viêm dạ dày– ruột cấp tính.
Căn nguyên
Những chủng Samonella là những trực khuẩn Gram âm thuộc họ enterobacteriaceae. Người ta đã phân lập được nhiều typ huyết thanh khác nhau, đặc biệt là s. typhimurium (trong đó có những chủng kháng đa thuốc đã được nêu lên), s. heidelberg, s. choleraesuis, s. enteritidis, s. nevvport, s. infantis, s. saint-paul, s. thompson, s. derby, s. javana, s. agona, s. braenderup, V..V… Người bị nhiễm bệnh là do ăn uống phải những thực phẩm bị ô nhiễm các vi khuẩn này, nhất là ăn trứng sống hoặc ướp lạnh, thịt (thịt gia cầm và giồi sống), các sản phẩm từ sữa không được diệt khuẩn bằng phương pháp Pasteur, rau sống bị nhiễm bẩn, các loài tôm cua. Viêm dạ dày-ruột thường biểu hiện ở trong một nhóm người đã cùng ăn chung những món thức ăn bị nhiễm, nhất là những thức ăn lưu giữ hoặc nấu chưa đủ chín. Bệnh cũng có thể lây truyền từ người này sang người khác qua tay bẩn (lây nhiễm do ăn uông phải thức ăn bị ô nhiễm phân). Trái với bệnh thương hàn và phó thương hàn chỉ lây truyền từ người nọ sang người kia, những bệnh do Salmonella khác lại là những bệnh lây từ động vật sang người do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm. Mầm bệnh được thải loại theo phân kéo dài hàng tuần sau khi khỏi bệnh, nhất là sau khi điều trị bằng thuốc kháng sinh.
Dịch tễ học
Những bệnh do Salmonella không phải thương hàn (không phải là bệnh thương hàn) phổ biến trên toàn thế giới, nhưng tần suất các typ huyết thanh thay đổi theo từng vùng. Những trường hợp ỉa chảy do nhiễm độc-nhiễm khuẩn tập thể do thực phẩm, mà nguồn gốc là từ trứng và thịt gia cầm bị ô nhiễm thường rất nặng ở những nhà dưỡng lão.
Triệu chứng
VIÊM DẠ DÀY-RUỘT CẤP TÍNH: biểu hiện sau một thời kỳ ủ bệnh từ 6-48 giờ với các triệu chứng đau bụng, ỉa chảy, buồn nôn, nôn, nhức đầu, và sốt. Trẻ em nhỏ tuổi nếu bị nhiễm bệnh thì cơ thể bị mất nước nhanh chóng (nguy cơ truy mạch). Mức độ và thời gian bị nhiễm bệnh phụ thuộc vào khả năng gây bệnh của typ huyết thanh và tình trạng toàn thân của bệnh nhân. Điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, nhiễm HIV và bệnh hồng cầu hình liềm là những yếu tố thuận lợi cho những thể bệnh nặng. Thông thường, sốt kéo dài 2-3 ngày và ỉa chảy sẽ ngừng trong vòng từ 5 đến 10 ngày.
BIẾN CHỨNG: biến chứng cục bộ (viêm khớp, viêm túi mật, viêm nội tâm mạc hoặc viêm màng trong tim, viêm màng não, viêm ngoại tâm mạc hoặc viêm màng ngoài tim, viêm phổi, viêm mủ da) hoặc biến chứng toàn thân, đặc biệt hay gặp ở những bệnh nhân AIDS dưới dạng vãng khuẩn huyết tái phát nhiều lần. Viêm khớp phản ứng (xem từ này) xảy ra ở 2% số bệnh nhân, đa số là những người mang kháng nguyên HLA-B27. Những trẻ sơ sinh và người già có nguy cơ cao bị biến chứng vãng khuẩn huyết. Nhiễm khuẩn mạch máu giả (nhân tạo) nhất là sau phẫu thuật điều trị phồng động mạch chủ bụng cũng hay xảy ra.
Xét nghiệm cận lâm sàng: phân có máu và bạch cầu.
Chẩn đoán dựa trên kết quả cấy phân và cấy máu, cũng như các phản ứng huyết thanh đặc hiệu, những phản ứng này cho phép xác định được typ huyết thanh của Salmonella gây bệnh.
Chẩn đoán phân biệt, xem: các trường hợp viêm dạ dày-ruột cấp tính khác.
Điều trị
Bồi phụ nước bằng đường uống hoặc truyền dịch, sửa chữa rối loạn chất điện giải. Không cho thuốc kháng sinh nếu là những thể bệnh không có biến chứng, vì sẽ kéo dài thời gian thải loại mầm bệnh theo phân và tạo thuận lợi cho các chủng kháng thuốc phát triển.
Đối với những thể bệnh nặng, có biến chứng, hoặc nhiễm khuẩn huyết, thì nên điều trị như sau:
- Người lớn: fluoroquinolon hoặc
- Trẻ em < 16 tuổi: Cotrimoxazol hoặc
- Phụ nữ có thai: amoxicillin hoặc •
Phòng bệnh
Nấu thức ăn có thịt đủ chín, không ăn trứng sống và món trứng đánh với nước đá. Phòng bệnh do Salmonella cho gia súc, giám sát những nhà máy chế biến thực phẩm, nhất là những khu vực đánh bắt hải sản và xử lý gia cầm. Khai báo bệnh. Loại trừ ra khỏi khâu chế biến thực phẩm những người lành mang mầm bệnh, những đối tượng đã bị mắc bệnh và được điều trị, cho tới khi những người này không còn mầm bệnh trong phân sau 2 lần xét nghiệm phân liên tiếp cách nhau một tuần.