Tên khác: Chè đắng, chè cỏ, cây dầu dầu
Tên khoa học: Euodia lepta (Spreing) Merr
Họ: Cam – Rutaceae.
1. Mô tả, phân bố
Ba chạc là cây nhỡ cao 2-8m, có nhánh màu đỏ tro. Lá có 3 lá chét, với lá chét nguyên. Cụm hoa ở nách các lá và ngắn hơn lá. Quả nang, thành cụm thưa, có 1-4 hạch nhẵn, nhăn nheo ở cạnh ngoài, chứa mỗi cái một hạt hình cầu đường kính 2mm, đen lam, bóng. Hoa tháng 4-5. Quả tháng 6-7.
2. Bộ phận dùng, thu hái
Bộ phận dùng làm thuôc của cây ba chạc là lá và rễ . Dược liệu ba chạc rất phổ biến khắp nước ta trên các đồi cây bụi, ở rìa rừng và trong rừng thưa, ở cả vùng đất núi và đồng bằng. Còn phân bố ở Trung Quốc, Philippin vv… Thu hái rễ và lá quanh năm. Rửa sạch rễ thái nhỏ và phơi khô ngoài nắng. Lá sấy khô hay phơi trong râm.
3. Thành phần hóa học
Rễ ba chạc chứa alcaloid; lá ba chạc có tinh dầu thơm nhẹ.
4. Công dụng, cách dùng
Dược liệu ba chạc có vị đắng, mùi thơm, tính lạnh; có tác dụng thanh nhiệt, chống ngứa, giảm đau. Lá ba chạc thường được dùng chữa ghẻ, mọn nhọt, lở ngứa, chốc đầu. Chữa các chứng nhiệt sinh khát nước, ho đau cổ họng, mắt mờ, trẻ em sốt cao sinh kinh giật. Ngày dùng 20-40g lá, dạng nước sắc hoặc cao. Thường nấu nước để tắm rửa hoặc xông. Có thể phối hợp với Kim ngân hoa (lượng bằng nhau) nấu nước uống. Rễ ba chạc và vỏ chữa phong thấp, đau gân, nhức xương tê bại, bán thân bất toại và điều hoà kinh nguyệt. Ngày uống 4-12g rễ và vỏ khô dạng thuốc sắc.
Ở Trung Quốc lá ba chạc được dùng:
1. Phòng trị bệnh cúm truyền nhiễm, viêm não;
2. Ðột quỵ tim, cảm lạnh, sốt, viêm họng, sưng amydal;
3. Viêm phế quản tích mủ, viêm gan.
Rễ ba chạc được dùng trị:
1. Thấp khớp, đau dây thần kinh hông, đau hông;
2. Ngộ độc lá ngón. Dùng ngoài trị đòn ngã tổn thương nọc rắn, áp xe, vết thương nhiễm trùng, eczema, viêm mủ da, trĩ.
Liều dùng: Lá 10-15g, rễ 9-30g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, lấy lá tươi đắp hoặc nấu nước rửa, hoặc phơi khô và tán bột làm thuốc đắp.
Ðơn thuốc: – Dự phòng cúm truyền nhiễm và viêm não: Ba chạc 15g. Rau má 30g. Ðơn buốt 15g. Cúc chỉ thiên 15g, sắc uống.