BINH LANG (hạt quả cau)
Tên khoa học: Areca catechu L.; Họ dừa (Palmae)
Bộ phận dùng: Hạt của quả cau. Cây cau có hai giống: cau rừng (sơn binh lang), hạt nhỏ, nhọn, chắc và cau vườn (gia binh lang) hạt to, hình nón cụt.
Hạt cau rừng còn gọi tiêm binh lang tốt hơn hạt cau nhà.
Hạt khô chắc, không mọt, ngoài không nhăn nheo, không vụn nát là tốt.
Thành phần hóa học: Có tanin (non có độ 70%, chín còn 15 – 20%), chất mô (myristin, olein, laurin), các chất đường; hoạt chất chính là arecolin, arlcaidin, guvacolin…
Tính vị – quy kinh: Vị đắng, cay, chát, tính ôn. Vào hai kinh vị và đại tràng.
Tác dụng: Hạ khí, hành thủy, tiêu hóa, sát trùng (phá tích)
Công dụng – liều dùng: Trị giun sán (30 – 80g) (phối hợp với hạt bí ngô), kích thích tiêu hóa (0,5 – 4g). Trị sốt rét (phối hợp với thường sơn, đồng lạng 12g).
Kiêng kỵ: người khí hư hạ hãm không tích trệ thì không nên dùng. Kỵ hỏa.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
Ngâm nước ủ mềm, cạo bỏ vỏ ngoài, thái nhỏ. Chớ chạm tới lửa sợ kém sức, nếu dùng chín thì thà không dùng (Lôi Công)
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Ngâm nước 2 – 3 ngày, ngày thay nước một lần trong chậu sành hay men, vì có chất chát, kỵ sắt, thái mỏng, phơi khô, không được sao.
– Thuốc trị sán: do xét nghiệm thấy nước sắc hạt cau có tác dụng làm tê liệt sán nhưng chỉ mạnh đối với đầu con sán (trái lại hạt bí rợ có tác dụng chủ yếu làm tê khúc đuôi), cho nên có bài thuốc sau đây:
Sáng lúc bụng đói ăn 40 – 100g hạt bí rợ (bỏ vỏ). Hai giờ sau uống nước sắc hạt cau (trẻ em trên 10 tuổi 30g, phụ nữ 50 – 60g, người lớn 80g, cho liều hạt cau trên đây đun với 300 ml nước. Đun cho cạn còn 250 ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5%
vào cho đến khi kết tủa (để loại chất chát). Gạn lọc, đun cạn cho còn 150 – 200ml). Nửa giờ sau khi uống hạt cau, uống một liều thuốc tẩy (Magie sunfat 30g). Nằm nghỉ, đợi thật buồn đi ngoài, ỉa vào một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào.
Bảo quản: Dễ bị mọt nên phải đậy kín, năng xem luôn. Nếu bị mọt có thể sấy hơi diêm sinh.