Tên khác: viêm màng não vô khuẩn, phản ứng màng não lympho bào, viêm màng não thanh dịch.
Căn nguyên
Theo thứ tự tần số, có thể kể: viêm màng não do virus quai bị (có thể xảy ra trước cả khi viêm tuyến nước bọt mang tai), viêm màng não do virus Coxsackie nhóm B (typ 2,3,4 và 5) hoặc nhóm A (typ 2,4,7 và 9), viêm màng não do virus E.C.H.O. Viêm màng não do poliovirus (virus bệnh bại liệt) đã trở thành hiếm sau khi cho uống vaccin bắt buộc. Những virus khác: virus bệnh viêm màng mạch-màng não lympho bào, HIV, virus- cự bào, arbovirus, virus bệnh sởi, virus herpes (bệnh mụn rộp), virus bệnh thuỷ đậu và zona, adenovirus.
Dịch tễ học
Viêm màng não do virus xảy ra lẻ tẻ trên toàn thế giới. Bệnh thường hay xuất hiện vào mùa hè và đầu mùa thu. Trong những điều tra dịch tễ, nếu sử dụng những kỹ thuật thích đáng thì có thể xác định được virus trong 2/3 số trường hợp bệnh.
Triệu chứng
Có những tiền triệu thuộc kiểu bệnh cúm, rồi khởi phát đột ngột với nhức đầu, sốt, nôn, sợ ánh sáng, và hội chứng màng não. Có thể thấy ban ngoài da dạng sởi hoặc mụn nước, nhất là trong những trường hợp nhiễm virus Coxsackie hoặc virus E.C.H.O. Có thể có những triệu chứng hô hấp và tiêu hoá kết hợp, nhất là trong trường hợp nhiễm enterovirus (virus đường ruột). Đôi khi có những dấu hiệu não (viêm màng não-não). Liệt hiếm khi xảy ra. Bệnh thường kéo dài khoảng 10 ngày. Diễn biến thường lành tính và các triệu chứng thuyên giảm trong vòng từ 2-5 ngày. Bệnh hiếm khi để lại di chứng: có thể yếu cơ, mất ngủ, rối loạn tính cách.
Xét nghiệm cận lâm sàng
- Dịch não tuỷ:trong, có dưới 10- 1000 tế bào trong mỗi pl trong đó 3/4 là tế bào lympho (bạch cầu hạt lúc khởi đầu), protein tăng nhẹ, glucose nói chung bình thường. Xét nghiệm phiến đồ cặn ly tâm nhuộm âm tính.
- Xác định virus:có thể thực hiện bằng hai test huyết thanh lần lượt cách nhau 15 ngày. Có thể xác định được virus bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR), hoặc phân lập virus từ bệnh phẩm lấy ở họng, từ phân cũng như từ dịch não tuỷ.
Chẩn đoán phân biệt: với viêm màng não nhiễm vi khuẩn nhưng điều trị không đến nơi đến chốn, lao màng não, viêm màng não do nhiễm nấm, viêm màng não do giang mai, viêm màng não do nhiễm leptospira, do nhiễm listera. Cũng cần phải phân biệt viêm màng não do virus với viêm não xảy ra sau một số bệnh (sởi, thuỷ đậu, quai bị) hoặc sau khi tiêm chủng vaccin (phòng bệnh dại, bệnh sỏi). Có những bệnh do virus có thể có hội chứng màng não đi kèm, ví dụ viêm gan do virus, bệnh cúm, bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.
Điều trị: điều trị triệu chứng.
GHI CHÚ: có một thể đặc biệt đã được mô tả dưới tên gọi viêm màng não Mollaret, hoặc viêm màng não nộị mô-bạch cầu tái phát nhiều lần lành tính, đặc hiệu bởi những thời kỳ bị đi bị lại và trong dịch não tủy có những tế bào nội mô kích thước lớn.