Tai biến mạch máu não (hay còn gọi là đột quỵ) là một bệnh xảy ra khi việc cung cấp máu lên một phần bộ não bị đột ngột ngừng trệ gây ra các triệu chứng thần kinh tồn tại quá 24 giờ.

Tai biến mạch máu não là một bệnh nặng gây tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt đối với người cao tuổi. Theo thống kê của Bộ Y tế nước ta, ở sáu bệnh viện lớn của Hà Nội vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tai biến mạch máu não là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. ở Mỹ có khoảng 750.000 trường hợp tai biến xảy ra mỗi năm và có 175.000 trường hợp tử vong. Tại Pháp, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu não ở người cao tuổi là 12% và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người cao tuổi.

Tần suất xuất hiện tai biến mạch máu não là 1,5 ca/1000 người/năm, tần suất này tăng đần theo tuổi; ở lứa tuổi trên 75, tần suất là 10 ca/1000 người/năm.

Khoảng 20% bệnh nhân tử vong trong vòng 1 tháng, 5 — 10% tử vong trong vòng một năm. Có khoảng 40% người bệnh phục hồi không để lại di chứng.

Nguyên nhân chủ yếu do tăng huyết áp, đái tháo đường, một số bệnh tim mạch (bệnh van tim, thiếu máu cơ tim, rung nhĩ), bệnh mạch máu ngoại biên, rối loạn lipid máu, lạm dụng thức uống có cồn (rượu, bia), rối loạn chức năng đông máu.

Theo y học cổ truyền, tai biến mạch máu não nằm trong phạm vi chứng “trúng phong”  “bán     thân     bất toại”

Theo Tổ chức Y tế Thế giới: tai biến mạch máu não là “dấu hiệu phát triển nhanh chóng trên lâm sàng của một rối loạn khu trú chức năng của não kéo dài trên 24 giờ và thường do nguyên nhân mạch máu não”.

Nhồi máu não

Đọc thêm:

Chẩn đoán và điều trị nhồi máu não cấp

Nhồi máu não (thiếu máu não cục bộ) là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn não do tắc một phần hoặc toàn bộ một động mạch não. Về mặt lâm sàng, tai biến nhồi máu não biểu hiện bằng sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng thần kinh khu trú, hay gặp nhất là liệt nửa người.

Nhồi máu não xảy ra khi một mạch máu bị huyết khối hoặc bị lấp mạch. Khu vực não được động mạch đó cung cấp máu bị thiếu máu và hoại tử.

Nguyên nhân chủ yếu gây nhồi máu não bao gồm:

  • Các bệnh về tim như:

+ Bệnh cơ tim giãn nở.

+ Viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn,

+ Rung nhĩ.

+ Bệnh mạch vành.

+ Khối u trong tim.

+ Các bệnh van tim khác.

  • Vữa xơ động mạch.
  • Tăng huyết áp.
  • Viêm động mạch.
  • Đái tháo đường.

    Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chính gây tai biến mạch máu não
    Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chính gây tai biến mạch máu não

Ở người bình thường, cấu trúc của đa giác Willis không hoàn toàn giống nhau. Khi cần, các nhánh nối thông của đa giác này có thể giãn to để cung cấp máu bù cho vùng bị giảm áp lực tưới máu.

Lưu lượng máu não không phụ thuộc vào lưu lượng tim với điều kiện huyết áp trung bình khoảng từ 7 – 15mmHg. Huyết áp trung bình là áp lực đẩy máu lên não được tính theo công thức:

Huyết áp trung bình = Huyết áp tâm trương + Huyết áp tâm thu

Việc điều hòa lưu lượng máu não thông qua cơ chế Bayliss: khi tim bóp mạnh, lượng máu lên não nhiều thì các động mạch não co lại để hạn chế tưới máu; khi máu lên não ít, các mạch máu não giãn ra để lượng máu lên não nhiều hơn. Như vậy: lượng máu lên não luôn hằng định ở mức 50ml/l00g não/phút.

Trong tai biến nhồi máu não ở người cao tuổi, động mạch cảnh hoặc các nhánh có độ chít hẹp khoảng 70 — 80% đường kính. Nguyên nhân chủ yếu là do mạch máu bị xơ vữa gây nên tình trạng lấp mạch; hoặc do cục máu đông (được hình thành trong các bệnh van tim, vữa xơ động mạch, rối loạn chức năng đông máu…) bong ra, trôi lên não và dừng lại ở những mạch máu có đường kính nhỏ hơn cục lấp mạch. Có hai loại cục lấp mạch:

  • Cục lấp mạch có thành phần chính là tiểu cầu có đặc điểm: không bền, dễ tan, có thể gây thiếu máu não cục bộ tạm thời, thường khỏi trong vòng 24 giờ.
  • Cục lấp mạch có thành phần chính là hồng cầu có đặc điểm: bền vững, gây thiếu máu não cục bộ vĩnh viễn.

Vùng thiếu máu não cục bộ do lấp mạch hoặc do huyết khối có hai vùng:

  • Vùng trung tâm với lưu lượng máu dưới l0ml/100g não/phút sẽ hoại tử trong vài giờ và không hồi phục.
  • Vùng xung quanh (ngoại vi) có lưu lượng máu từ 20 – 30ml/100g não/phút: tại vùng này, các tế bào não không hoạt động điện nhưng chưa chết mà vẫn duy trì hoạt động sống tế bào. Đây là vùng tranh tối tranh sáng. Nếu tuần hoàn bàng hệ tốt hoặc được điều trị kịp thời, giúp cho tế bào hô hấp được thì vùng này có thể hồi phục. Tuy nhiên, khả năng hồi phục của các tế bào não ở vùng này chi xảy ra trong vài giờ rồi có thể chuyển sang hoại tử. Thời gian cứu vùng này gọi là “cửa sổ điều trị”.

Các trường hợp nhồi máu não do tim thường gặp hơn do vữa xơ động mạch.

Xuất huyết não

Đọc thêm:

Phác đồ điều trị xuất huyết não

Xuất huyết não xảy ra khi máu thoát ra khỏi thành mạch vào nhu mô não.

Nguyên nhân chủ yếu gây xuất huyết não bao gồm:

  • Tăng huyết áp.
  • Rối loạn đông máu và dùng thuốc chống đông.
  • Nhồi máu não diện rộng.
  • u não.
  • DỊ dạng mạch máu não.
  • Bệnh mạch máu não dạng tinh bột: thương gặp ở người già trên 75 tuổi. Trong bệnh này: chất dạng tinh bột lắng đọng trong thành các động mạch não và có thể là nguyên nhân phổ biến nhất của xuất huyết thùy ở người cao tuổi.
  • Chấn thương sọ não.

Hiện nay đang tồn tại hai thuyết xuất huyết não do tăng huyết áp:

  • Thuyết Charcot: mạch máu bị vỡ là do các túi phình vi mạch được hình thành khi động mạch bị thoái hóa do tăng huyết áp. VỊ trí xuất huyết não thường là tại nhánh sâu của động mạch não giữa (động mạch đậu vân — động mạch Charcot) – tưới máu cho các hạch nền.
  • Thuyết Ruochuox: trước khi xuất huyết đã có hiện tượng nhồi máu não. Khi có nhồi máu não, tại vùng này xuất hiện hiện tượng thiếu máu và hoại tử. Sau đó có một đợt tăng huyết áp. Áp lực máu tác động vào phần động mạch bị tắc, biến phần nhồi máu thành vùng xuất huyết; hoặc mạch máu tại vùng đó võ ra gây xuất huyết não.

Như vậy, có hai yếu tố quan trọng gây tai biến mạch máu não: thành mạch bị tổn thương và tăng huyết áp.

0/50 ratings
Bình luận đóng