Khái niệm

Tự ra mồ hôi là chỉ cơ thể không do mệt nhọc, không do trời nắng mặc áo dầy quá nóng và cũng không do uống thuốc phát tán mà tự nhiên lại ra mồ hôi.

Chứng này đầu tiên thấy ở mục Biện Thái dương bệnh mạch chứng tính trị – thượng – Thương hàn luận nói là: “Tự ra mồ hôi” (tự hãn xuất). Sách Tam nhân phương thì ghi “Vô luận là thức hay ngủ, mồ hôi ra dâm dấp gọi là Tự hãn”.

Ở mục này chỉ bàn về tự mồ hôi toàn thân, còn các chứng cục bộ tự ra mồ hôi như: Đầu hãn” (ra mồ hôi ở đầu), “Thủ túc hãn” và “Tuyệt hãn” thì có chuyên mục riêng.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Tự ra mồ hôi do Doanh Vệ không hòa: Có các chứng trạng ra mồ hôi mà sợ gió, toàn thân đau mỏi, lúc lạnh lúc nóng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hoãn.
  • Tự ra mồ hôi do phong thấp tổn thương phần biểu: Mồ hôi tự ra liên tục, lượng mồ hôi không nhiều, ố phong, ố hàn, chân tay nặng nề tê dại, tiểu tiện sẻn ít, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Hoãn hoặc Nhu Hoạt.
  • Tự ra mồ hôi do nhiệt hun đốt Dương minh: Có các chứng trạng tự ra mồ hôi liên tục, lượng mồ hôi nhiều, sốt cao mặt đỏ, phiền khát, rêu lưỡi vàng khô, mạch Hồng Đại có lực.
  • Tự ra mồ hôi do thử tà làm thương khí âm: Có các chứng trạng tự ra mồ hôi liên tục, lượng mồ hôi nhiều, khát nước, hung cách bĩ đầy, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mà khô, mạch Hồng Đại vô lực.
  • Tự ra mồ hôi do khí hư: Có các chứng trạng tự ra mồ hôi, động làm mồ hôi ra nhiều, luôn luôn ố hàn, đoản hơi thở gấp, mệt mỏi biếng nói, sắc mặt nhợt, bình thường không chịu đựng phong hàn rất dễ cảm mạo, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hoãn vô lực.
  • Tự ra mồ hôi do dương hư: Có các chứng trạng tự ra mồ hôi, động làm thì bệnh nặng hơn, cơ thể lạnh chân tay lạnh, kém ăn, trướng bụng, ưa uống nóng, đại tiện lỏng nhão, sắc mặt úa vàng hoặc trắng nhợt, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Hư Nhược.

Phân tích

  • Chứng Tự ra mồ hôi do Doanh Vệ không hòa: Do thể chất vốn biểu hư, Vệ khí không bền, tấu lý không kín, lại do Doanh âm bất túc dễ cảm nhiễm phong tà khiến cho âm dương không điều hòa, mất chức năng mở đóng. Cho nên sau khi ra mồ hôi thì ố phong rất rõ, mỏi toàn thân, lúc lạnh lúc nóng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hoạt…đó là hiện tượng Doanh Vệ không hòa. Điều trị nên điều hòa Doanh Vệ, cho uống Quế chi thang.
  • Chứng Tự ra mồ hôi do phong thấp tổn thương ởbiểu: Phần nhiều gặp ở chứng cảm mạo kiêm thấp và Tý chứng. Đúng như Hãn chứng – Loại chứng trị tài chỉ rõ “Nếu như phong thấp tranh giành nhau, có lúc tự ra mồ hôi, Ố phong tự hãn”. Vì tà khí phong thấp xâm lấn cơ biểu tổn thương đến Vệ dương, hoặc thể trạng vốn hư yếu lại cảm nhiễm ngoại tà phong thấp, cơ biểu bị tổn hại dẫn đến tấu lý lúc mở lúc đóng cho nên tự ra mồ hôi kéo dài, lượng mồ hôi không nhiều, ố phong, ố hàn, mạch Phù Hoãn. Phong thấp tê nghẽn kinh lạc, đường kinh toại không được lưu thông thì xuất hiện chứng chân tay mình mẩy nặng nề, tê dại, mạch Nhu Hoạt. Thấp tà dễ dẫn đến Tam tiêu mất thư sướng, Bàng quang không lợi dẫn đến tiểu tiện sẻn ít. Rêu lưỡi trắng mỏng là phong thấp xâm phạm cơ biểu mà không có hiện tượng nhiệt. Điều trị nên khư phong, thắng thấp, ích khí cố” biểu, chọn dùng Phòng kỷ Hoàng kỳ thang gia giảm.
  • Chứng Tự ra mồ hôi do nhiệt hun đốt Dương minh và chứng Tự ra mồ hôi do thử tà làm thương khí âm: Cả hai đều là nhiệt chứng tự ra mồ hôi, cơ chế bệnh cũng có chỗ gần giống nhau nhưng mùa phát bệnh và tà khí cảm nhiễm không giống nhau. Loại trên là chứng Thương hàn, tà truyền vào Dương minh, phát bệnh không cứ gì phải mùa Hạ mới phát. Loại sau là chứng thương thử, khí âm suy hao phát sinh vào đúng mùa Hạ. Yếu điểm để biện chứng tự ra mồ hôi do nhiệt hun đốt Dương minh là: mồ hôi ra nhiều mà bệnh vẫn không giảm, kiêm chứng sốt cao phiền khát, mạch Hồng Đại hữu lực. Điều trị nên thanh nhiệt tả hỏa, cho uống các loại như Bạch hổ thang. Yếu điểm để biện chứng tự ra mồ hôi do thử làm thương khí âm là: vừa có triệu chứng thử nhiệt như phát nhiệt ra mồ hôi lại có chứng trạng khí âm bất túc như khát nước lưỡi đỏ, mạch tuy Hồng mà vô lực… điều trị nên thanh thử tiết nhiệt, ích khí sinh tân, chọn dùng phương Vương thị thanh thử ích khí thang.
  • Chứng Tự ra mồ hôi do khí hư với chứng Tự ra mồ hôi do dương hư: Cả hai đều tự ra mồ hôi thuộc hư chứng nhưng nguyên nhân, cơ chế bệnh lại không giống nhau. Tự ra mồ hôi do khí hư chủ yếu là trách cứ vào Tâm Phế. Vì Tâm chủ về hãn dịch, Phế chủ về khí toàn thân, bên ngoài hợp với bì mao. Vì Tâm Phế khí hư, biểu vệ không bền, tấu lý không kín, tân dịch tiết ra ngoài cho nên thường xảy ra tự ra mồ hôi. Yếu điểm biện chứng là: tự ra mồ hôi động làm là ra ngay, bình thường không chịu nổi phong hàn rất dễ cảm mạo, luôn luôn sợ lạnh, đoản hơi, hổn hển, mệt mỏi, biếng nói, mặt trắng nhợt, mạch Hoãn Hoạt vô lực. Điều trị nên bổ khí, cố biểu chỉ hãn, chọn dùng phương Bổ trung ích khí thang và Ngọc bình phong tán gia giảm. Tự ra mồ hôi do dương hư trách cứ chủ yếu vào Tỳ Thận vì Tỳ là nguồn sinh hóa khí huyết, Thận là nơi chứa chân Âm mà ngụ cả nguyên dương, chỉ nên giữ gìn kín đáo. Ấm dương ứng tượng đại luận – Tố vấn có nói “Dương ở ngoài do điều khiển của âm”. Nếu Tỳ Thận dương khí hư yếu, dương không liễm âm thì tự ra mồ hôi. Yếu điểm biện chứng là: ngoài chứng tự ra mồ hôi còn có triệu chứng Tỳ Thận dương hư như: cơ thể lạnh, c.hân tay lạnh, biếng ăn, đại tiện nhão, lưng gối mỏi yếu. Điều trị nên ôn dương liễm âm, chọn dùng các phương Kim quỹ Thận khí hoàn hợp với Bổ trung ích khí thang phối hợp với các vị thuôc thu sáp, liễm âm như Long cốt nung, Mầu lệ nung và Ngũ vị tử…

Chứng tự ra mồ hôi đều có thể xuất hiện trong biểu chứng, lý chứng, hư chứng, thực chứng. Chính như sách Thương hàn minh lý luận chỉ rõ “Tự ra mồ hôi… cũng đều có chứng của âm dương, không được bảo là tự ra mồ hôi phải thuộc dương hư”. Vì thế chứng tự rạ mồ hôi trên lâm sàng trước hết cần phải phân biệt cho rõ tính chất khác nhau giữa ngoại cảm thời bệnh với nội thương tạp bệnh. Loại trên phần nhiều thuộc thực chứng, loại sau phần nhiều thuộc hư chứng, nhưng thường gặp nhiều là hư chứng. Cũng có trường hợp gặp chứng hư thực lẫn lộn phải phân biệt tiêu bản, cần nhắc chủ thứ mà biện chứng luận trị.

Trích dẫn y văn

Dương lân vào âm thì ra mồ hôi (Âm dương biệt luận – Tố vấn).

  • Bị kinh hãi mà đoạt tinh, ra mồ hôi từ Tâm. Mang nặng đi đường xa, ra mồ hôi từ Thận, hốt hoảng đi đường xa, ra mồ hôi từ Can. Mệt nhọc run rẩy ra mồ hôi từ Tỳ (Kinh mạch biệt luận – Tố vấn).
  • Tự ra mồ hôi thuộc Khí hư, Huyết hư, Thấp, Dương hư, Đàm. Chứng tự ra mồ hôi chưa từng bao giờ Tâm Thận đều hư mà bị, cho nên âm hư dương phải lụy phát nhiệt mà ra mồ hôi. Dương hư âm tất lấn chiếm phát quyết mà tự ra mồ hôi cho nên âm dương thiên thắng gây nên (tự hãn). (Đan Khê tâm pháp).
  • Tự ra mồ hôi tôi kỵ dùng Sinh khương là vì nó mở tấu lý cho nên như vậy.
  • Tự ra mồ hôi tuy do Vệ khí không bền, tân dịch ở trong Vị tiết ra ngoài mà thực ra có liên quan đến sự hun đốt ở tạng phủ phần dương của Tâm không Vệ ngoại thì không bền cho nên tự ra mồ hôi (Tạp môn – Trương thị y thông).
0/50 ratings
Bình luận đóng