Sảng rượu lần đầu tiên được Pearson S.B mô tả lâm sàng từ năm 1813, ông gọi đó là loạn thần cấp do rượu. Sau đó bệnh này được Sutton T. đặt tên là sảng rượu. Pearson nêu ra các dấu hiệu đặc trưng của bệnh là: lú lẫn, toát mồ hôi, ảo giác cùng các rối loạn về tim mạch.
Ở Tây Ban Nha, bệnh cảnh lâm sàng của sảng rượu đã được Morales S.E mô tả chi tiết từ năm 1939 trên một bệnh nhân nam. Đến năm 1945, Pallares F.c mô tả một cách đầy đủ bệnh sử điển hình của một bệnh nhân sảng rượu và nhấn mạnh rằng bệnh nhân sảng rượu có tiền sử uống rượu nhiều, lâu năm.
Đến năm 1948, Barea F.p đã phân loại sảng rượu, mô tả về tiến triển, tiên lượng của sảng rượu với 3 giai đoạn lâm sàng. Tác giả cũng nêu ra cách thức điều trị sảng rượu.
Đến nay, tất cả các tác giả đều cho rằng sảng rượu là một bệnh riêng biệt trong loạn thần do rượu, được phát sinh và phát triển cấp tính trên bệnh nhân nghiện rượu mạn tính.
Mục lục
Phân loại sảng rượu
Theo bảng phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới lần thứ 10 (ICD 10) năm 1992, sảng rượu được phân loại như sau:
– F10.03: Sảng do ngộ độc rượu cấp.
– F10.1: Trạng thái cai với mê sảng, trong đó có:
+ Trạng thái cai với mê sảng không có co giật.
+ Trạng thái cai với mê sảng có co giật.
Như vậy, ICD 10 chia sảng thành 2 loại: sảng do ngộ độc rượu cấp và sảng so cai rượu.
Sảng do ngộ độc rượu cấp là loạn thần cấp tính, xuất hiện khi người bệnh uống quá nhiều rượu gây ngộ độc cấp. Tình trạng ngộ độc sẽ qua đi khi lượng rượu trong cơ thể được thải trừ và chuyển hoá hết.
Sảng do cai rượu xuất hiện trên bệnh nhân nghiện rượu mạn tính, đến khi ngừng uống rượu đột ngột do một lý do nào đó (bệnh nội khoa, ngoại khoa hoặc tự cai) thì bệnh nhân sẽ có hội chứng cai rượu và sảng rượu xuất hiện trên nền của hội chứng cai rượu.
Theo Hội Tâm thần học Mỹ năm 1994 (DSM IV), sảng rượu cũng bao gồm sảng do ngộ độc rượu cấp và sảng do cai rượu. Tuy nhiên do bệnh cảnh lâm sàng của 2 loại sảng này là giống nhau (mặc dù khác về nguyên nhân), nên DSM IV đã gộp cả 2 loại sảng này vào chung một mục là: 291.0 sảng trong ngộ độc rượu và sảng trong hội chứng cai rượu.
Bệnh nguyên của sảng rượu
Sảng rượu xuất hiện trên nền của nghiện rượu mạn tính, do vậy nguyên nhân sâu xa của sảng rượu là tình trạng nghiện rượu mạn tính. Tuy nhiên không phải cứ nghiện rượu mạn tính là có sảng rượu. Một số yếu tố khi kết hợp với nghiện rượu mạn tính sẽ làm xuất hiện sảng rượu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thể khẳng định được chính xác là yếu tố nào. Người ta khái quát lên một số yếu tố thuận lợi như chấn thương sọ não, yếu tố gien…
- Chấn thương sọ não
Đa số các tác giả đều cho rằng chấn thương sọ não có tác động đến sự xuất hiện của sảng rượu. Những chấn thương sọ não ít nhiều gây xáo trộn, ảnh hưởng đến cấu trúc não, từ đó hạ thấp ngưỡng chịu đựng của não đối với rượu, những chất độc hại có trong rượu cũng dễ phát huy tác dụng trên bộ não đã bị chấn thương. Trên thực tế, những người bị chấn thương sọ não khi uống rượu dễ bị say hơn so với khi chưa bị chấn thương hoặc so với người khoẻ mạnh. Tuy nhiên, chấn thương sọ não có trước ở người nghiện rượu cũng chỉ được coi là yếu tố thuận lợi cho khởi phát sảng rượu mà thôi.
Chấn thương sọ não trên một bệnh nhân nghiện rượu làm bệnh nhân buộc phải cai rượu thụ động vì không uống rượu được nữa (do điều trị chấn thương). Khi đó hội chứng cai rượu xảy ra và chấn thương sọ não này làm cho sảng rượu dễ xuất hiện và tiến triển nặng nề hơn. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân chấn thương sọ não có sảng rượu cần thời gian điều trị dài hơn bệnh nhân chấn thương sọ não không có sảng rượu từ 5-7 ngày.
- Bệnh cơ thể kết hợp
Các bệnh cơ thể phát sinh và phát triển trong quá trình nghiện rượu được coi là những yếu tố thuận lợi, thúc đẩy, đưa bệnh nhân vào sảng rượu. Các bệnh cơ thể, nhất là những bệnh về gan làm cho sự chuyển hoá, thải trừ của rượu bị cản trở… dẫn đến sự tích tụ lại trong cơ thể các sản phẩm chuyển hoá dở dang và các chất độc hại có trong rượu gây độc cho não, từ đó dẫn đến loạn thần do rượu.
Bệnh cơ thể kết hợp cũng làm rối loạn hấp thụ và chuyển hoá các chất dinh dưỡng dẫn đến tình trạng thiếu hụt vitamin và các chất vi lượng là nguyên nhân xuất hiện và phát triển của sảng rượu. Ngoài ra, do một bệnh cơ thể mà bệnh nhân không
còn uống rượu được vì phải điều trị các bệnh cơ thể này, từ đó làm xuất hiện hội chứng cai thụ động và sảng rượu.
- Vai trò của gien di truyền trong sảng rượu
Người ta thấy có mối liên quan giữa gien A9 trong chuỗi gien điều tiết dopamin có liên quan đến sảng rượu. Nghiên cứu của Batel p. (năm 2003) nhận thấy tất cả những người mang gien A9 đều bị sảng rượu và co giật khi cai rượu, ở phụ nữ, gien A9 liên quan đến ảo thị, trong khi ở nam giới thì gien này liên quan đến cơn co giật kiểu động kinh.
Ngoài ra, người ta còn nhận thấy gien c ở vị trí 45 trong chuỗi gien hoạt hoá cholecystokinin có liên quan đến chứng ảo giác do rượu. Những người có gien này dễ bị ảo giác và sảng rượu hơn những người khác.
Quan niệm hiện nay về bệnh sinh của sảng rượu
Hiện nay người ta vẫn còn hiểu biết rất ít về sinh lý bệnh của hội chứng cai rượu và sảng rượu. Những rối loạn chức năng sinh lý do sảng rượu là hậu quả của những rối loạn chức năng ở hệ thần kinh trung ương chứ không phải là rối loạn thông thường. Mất chức năng ức chế ở hệ thống GABAergic là nguyên nhân chính dẫn đến những rối loạn ở những bệnh nhân có hội chứng cai rượu.
Từ lâu, người ta biết rằng GABA là chất dẫn truyền có tác dụng ức chế thần kinh khi bị ngộ độc rượu cấp tính. Giảm độ tập trung của GABAergic và ái lực thấp của nó có thể gây ra nghiện rượu. Trong giai đoạn cai rượu thấy xuất hiện hiện tượng giảm số lượng các GABAergic và giảm ái lực của các cơ quan này làm cho chúng có ái lực hoá học cao gắn với các vị trí xung quanh và mất chức năng kiểm soát ức chế trước si-náp.
Những rối loạn trong việc giải phóng catecholamin gần như đóng vai trò quyết định trong cường adrenalin. Phản ứng cường adrenalin là sự giảm chức năng điều chỉnh của thụ thế alpha 2 trước si-náp ở người nghiện rượu mạn tính hoặc đang trong giai đoạn cai rượu kết hợp với mất chức năng ức chế thần kinh giao cảm trước si-náp.
Mặc dù hiện tượng thiếu magiê không được tìm thấy trong dịch não tuỷ của bệnh nhân có hội chứng cai rượu, song việc giảm calci và magiê huyết thường thấy trong thời kỳ cai rượu có thể góp phần làm tăng kích thích thần kinh trung ương do biến đổi tiềm thức của bệnh nhân. Nghiện rượu mạn tính làm giảm sự giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh và kích thích tế bào thần kinh thông qua tác động với màng tế bào. Nghiện rượu mạn tính làm giảm nhu cầu sử dụng oxy làm giải phóng chất adenosin triphosphat ở mức độ tế bào có thể gây ra những rối loạn sinh lý ở giai đoạn cai rượu.
Các giai đoạn của sảng rượu
- Giai đoạn khởi phát
Sảng rượu thường phát sinh và phát triển ở bệnh nhân có thời gian nghiện rượu nhiều năm, đa số các trường hợp phải nghiện rượu trên 10 năm và trong giai đoạn 2 của nghiện rượu.
Sảng rượu có thể khởi phát đột ngột, cấp tính trong khoảng thời gian từ một đến vài ngày sau khi ngừng uống rượu, sảng rượu cũng có thể khởi phát bán cấp với một giai đoạn tiền triệu có thể diễn biến trong vài ngày đến vài tuần. Dấu hiệu báo trước cho những cơn sảng rượu xuất hiện lần đầu tiên là bệnh nhân lao vào uống rượu liên miên, mặc dù số lượng uống mỗi lần không lớn. Bệnh nhân luôn trong tình trạng say rượu. Biểu hiện ban đầu là những rối loạn giấc ngủ, bệnh nhân thường mất ngủ và có ác mộng. Ngoài ra, bệnh nhân luôn mệt mỏi, chếnh choáng, run lẩy bẩy, rối loạn thần kinh thực vật (đỏ da, ra rất nhiều mồ hôi, đánh trống ngực, có cơn nóng bừng hoặc rét run), thay đổi cảm xúc, sợ hãi, lo lắng.
sảng rượu xuất hiện trên bệnh nhân nghiện rượu sau khi ngừng rượu đột ngột từ một đến vài ngày. Lý do ngừng uống rượu có thể là do các bệnh nội khoa (chiếm 75% số trường hợp) như bị bệnh nhiễm khuẩn, viêm phổi, viêm tụy; bệnh ngoại khoa (20%) như các phẫu thuật cấp cứu, chấn thương sọ não…, và một sói ít bệnh nhân tự cai (5%) do sức ép của gia đình, cơ quan. Các nguyên nhân này khiến bệnh nhân không còn cơ hội uống rượu một cách triệt để.
Sau khi bệnh nhân ngừng uống rượu sẽ xuất hiện hội chứng cai rượu. Hội chứng cai rượu ở các bệnh nhân này nặng lên nhanh chóng và bệnh nhân sẽ đi vào sảng rượu. Quãng thời gian từ khi ngừng uống đến khi xuất hiện sảng rượu khác nhau ở từng bệnh nhân, phụ thuộc vào số lượng rượu uống, thời gian uống rượu và bệnh lý cơ thể mắc phải. Đa số trường hợp bệnh nhân có sảng sau 24-48 giờ sau khi ngừng uống, nhưng có trường hợp sảng xuất hiện sau khi ngừng uống rượu từ 3-4 ngày.
Triệu chứng trong giai đoạn khởi phát rất phong phú, có đến 100% số bệnh nhân có mất ngủ, 75% mệt mỏi và chán ăn, 50% số bệnh nhân có hoảng sợ kịch phát. Các triệu chứng khác hay gặp là run tay chân (65% số trường hợp), không tập trung chú ý (75%), có tình trạng chếnh choáng (64%).
Theo thứ tự thời gian thì mất ngủ là triệu chứng xuất hiện sớm nhất, tiếp theo là các ảo tưởng thị giác và thính giác, cùng với các hoang tưởng và trạng thái hoảng sợ. Dần dần các ảo thị, ảo thanh sẽ thay thế các ảo tưởng thị giác và ảo tưởng thính giác.
Sảng rượu thường bắt đầu vào buổi chiều và nặng lên về đêm với những hồi ức, ảo tưởng thị giác, ảo thị với những hình ảnh rất sinh động trên tường. Trong giai đoạn này, bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phán, dần dần xuất hiện rối loạn định hướng thoáng qua hoặc định hướng không đầy đủ về không gian, thời gian. Bệnh nhân không biết được mình đang ở đâu, lúc này là buổi sáng hay buổi chiều… Nét mặt của bệnh nhân có phần kém linh hoạt, chú ý kém, khí sắc không ổn định, cảm xúc trái ngược. Bệnh nhân có thể vui vẻ hoặc nổi cáu với những lý do không thích đáng.
Khoảng 10-15% số bệnh nhân ở giai đoạn khởi phát của sảng rượu có các cơn co giật kiểu động kinh. Trên nền hội chứng cai rượu mức độ nặng, bệnh nhân xuất hiện các cơn co giật kiểu động kinh (co cứng, co giật, doãi mềm, hôn mê ngắn) một cách đột ngột. Tất cả các trường hợp có co giật kiểu động kinh trong hội chứng cai rượu thì sẽ nhanh chóng chuyển thành sảng rượu. Vì vậy cơn co giật kiểu động kinh trong hội chứng cai rượu được coi là dấu hiệu báo trước sảng rượu sẽ sớm xuất hiện.
- Giai đoạn toàn phát
Các triệu chứng của giai đoạn này rất đa dạng, phong phú và biến đổi liên tục, nhưng sảng rượu luôn có 3 triệu chứng sau:
- Mất ngủ hoàn toàn: bệnh nhân không ngủ được chút nào (kể cả ngủ trưa và ngủ tôi) trong vài ngày liên tục.
- Rối loạn ý thức: bệnh nhân rối loạn định hướng không gian (không biết mình đang ở đâu), thời gian (không biết giờ là sáng hay chiều, khoảng mấy giờ…); nặng hơn sẽ có rối loạn định hướng bản thân (không biết mình là ai). Sau đó bệnh nhân sẽ có u ám ý thức rồi chuyển thành hôn mê.
Bệnh nhân cảm thấy thời gian trôi rất chậm hoặc rất nhanh, phần lớn bệnh nhân tăng tính ám thị. Thỉnh thoảng tình trạng rối loạn ý thức của bệnh nhân lại giảm đi, ý thức sáng sủa hơn, bệnh nhân tỉnh táo trong những khoảng thời gian ngắn gọi là cửa sổ của ý thức.
- Rối loạn nhận thức: bệnh nhân không có khả năng nhận thức các điều mới, có hoang tưởng (ghen tuông, bị hại), ảo giác (ảo thanh, ảo thị) rầm rộ.
Ảo thị thường là các ảo thị tý hon, bệnh nhân thường nhìn thấy các con vật nhỏ (như kiến, sâu, gián, nhện, chim, dơi…); đôi khi bệnh nhân nhìn thấy các hình ảnh lớn nhưng không đầy đủ (như hình người không đầu) hoặc các hình ảnh ghê rợn khác (ma, quỷ) khiến bệnh nhân rất hoảng sợ. Các ảo thị lúc đến gần, lúc lại lùi xa; khi thì một loại, khi thì nhiều loại; đôi khi giống cảnh sân khấu và thường có nội dung đe dọa bệnh nhân, đuổi đánh bệnh nhân. Khi bệnh nặng bệnh nhân có các ảo thính với nội dung đe dọa, chửi bới bệnh nhân.
Trên nền ảo giác, bệnh nhân xuất hiện dần những hoang tưởng cảm thụ, nội dung của hoang tưởng thường phản ánh ảo giác. Hoang tưởng hay gặp là hoang tưởng bị hại, bị theo dõi, ghen tuông. Các hoang tưởng của sảng rượu tồn tại trong một thời gian ngắn và hết khi sảng rượu thuyên giảm.
Khí sắc của bệnh nhân luôn thay đổi từ nghi ngờ, hoảng sợ, ức chế, thất vọng… đến hài hước, ngạc nhiên. Hành vi và cảm xúc của bệnh nhân phù hợp với nội dung của hoang tưởng, ảo giác, chiếm ưu thế là tình trạng kích động vận động (bệnh nhân bồn chồn, chạy trốn, luôn lo sợ điều gì xấu sẽ xảy ra với mình).
Sảng rượu còn kèm theo rất nhiều rối loạn thần kinh, đặc biệt là tình trạng run của bệnh nhân. Bệnh nhân run rẩy ở đầu chi, run có biên độ nhỏ, tần số nhanh, bệnh nhân cảm nhận đó là sự rung rinh… vì vậy sảng rượu còn gọi là sảng run. Sự run cũng thể hiện trên khuôn mặt đờ đẫn; mí mắt lim dim hấp háy; lời nói ngập ngừng, ngắt quãng; bệnh nhân diễn tả rất khó hiểu. Tình trạng run này có nguyên nhân từ tình trạng mất nước của bệnh nhân (tình trạng mất nước của bệnh nhân là do bệnh nhân đổ mồ hôi dữ dội liên tục hoặc từng đợt, mất nước còn do bệnh nhân sốt (từ 38-40 độ C).
- Giai đoạn lui bệnh
Đa số các trường hợp sảng có kết thúc tốt, bệnh lui dần với các triệu chứng lúc tăng, lúc giảm, sảng rượu cấp thường tiến triển trong 3-4 ngày, sau đó bệnh nhân đi vào giấc ngủ sâu và khi tỉnh dậy thì các triệu chứng loạn thần thuyên giảm gần hết. Người ta nhận thấy 90% các trường hợp sảng tiến triển liên tục và khỏi bệnh đột ngột, 10% có dạng tiến triển thành 2-3 cơn, giữa các cơn có khoảng sáng ý thức chừng 1 ngày. Sau cơn sảng, bệnh nhân chỉ có thể nhớ lại một cách đứt đoạn. Bệnh nhân có thể nhớ rất rõ nội dung ảo thị, ảo thanh… nhưng nhớ rất kém những gì đã xảy ra xung quanh.
Biến đổi cận lâm sàng của sảng rượu
Trong sảng rượu, các xét nghiệm phản ánh tình trạng sốc mất nước, giữ phospho, hạ đường huyết, cô đặc máu, tăng cao urê huyết. Sảng rượu còn làm tăng hematocrit, tăng protein, tăng natri và giảm nhẹ kali máu, rối loạn điện giải, mất nước. Ngoài ra công thức bạch cầu chuyển trái, tăng máu lắng, tăng cholesterol, tăng bilirubin máu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán sảng rượu theo DSM IV (năm 1994)
- Rối loạn ý thức (nghĩa là giảm rõ ràng trong nhận thức về môi trường) cùng với giảm khả năng tập trung, sự chú ý luôn xê dịch.
- Rối loạn nhận thức: giảm trí nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn ngữ hoặc rối loạn khả năng quan sát mà những rối loạn này không do sa sút trí tuệ trước đây, đã được xác định hoặc đang tiến triển.
- Các rối loạn này xuất hiện cấp tính (trong vài giờ đến vài ngày) và tiến triển có khuynh hướng dao động trong ngày.
- Có bằng chứng về một bệnh nội khoa, một trạng thái nhiễm độc, một hội chứng cai.
Tiến triển của sảng rượu
Sảng rượu có thể bị một lần hoặc tái phát nhiều lần nếu bệnh nhân uống rượu trở lại. Sau mỗi lần tái phát, bệnh cảnh của sảng rượu lại có sự thay đổi theo hướng đơn giản hoặc phức tạp lên. Nói chung khoảng cách giữa các lần tái phát ngày càng ngắn lại. Tái phát sảng rượu làm tan rã nhân cách của bệnh nhân, làm mất dần khả năng lao động của họ.
Tỷ lệ tử vong của sảng rượu cũng khác nhau giữa trường hợp được điều trị và không điều trị. Nếu được điều trị kịp thời và đúng, tỷ lệ khỏi của sảng rượu có thể đạt tới 98-99%; nhưng nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng quy cách, tỷ lệ tử vong của sảng rượu là 22-33%. Tử vong của sảng rượu là do trụy tim mạch, do các biến chứng nhiễm trùng và do tai nạn (ngã, tự gây thương tích trong tình trạng rối loạn ý thức nặng).
Điều trị sảng rượu
Sảng rượu là một cấp cứu tâm thần tối khẩn cấp, tỷ lệ tử vong rất cao (22-33%) nên cần phải khẩn trương bằng mọi cách làm giảm nhẹ mức độ của sảng rượu để tránh nguy hiểm đến tính mạng của bệnh nhân.
- Tại tuyến cơ sở
Làm giảm nhẹ tình trạng sảng của bệnh nhân bằng cách cho bệnh nhân uống một chút rượu. Có thể làm như sau:
- Cho bệnh nhân uống 30ml rượu vang 10 độ cồn, ngày 3 lần (sáng, chiều, tối).
- Lấy 10ml rượu trắng (40 độ cồn) với 30ml nước lã để được 40ml rượu 10 độ cồn, cho uống ngày 3 lần (sáng, chiều, tối).
- Lấy một miếng bông to, tẩm cồn, để lên mũi cho bệnh nhân ngửi. Khi bông khô thì đổi miếng bông khác.
Sau khi được dùng rượu trở lại với liều thấp thì tình trạng ý thức của bệnh nhân sẽ khá lên, sảng rượu sẽ thuyên giảm. Lúc này ta chưa đạt được mục đích cai rượu cho bệnh nhân nhưng giúp bệnh nhân qua cơn nguy cấp. Nên cho thêm các thuốc sau:
+ Seduxen 10mg X 1 ống/tiêm bắp.
+ Vitamin B1 100mg X 1 ống/tiêm bắp.
Sau đó chuyển bệnh nhân lên tuyến trên điều trị.
- Tại bệnh khoa tâm thần
Sảng rượu cần được điều trị tại phòng cấp cứu có bình oxy, máy hút và các phương tiện cấp cứu cần thiết khác. Bệnh nhân được xử lý như sau:
- Cố định bệnh nhân tại giường bằng 3 sợi dây to bản và chắc chắn giống quai ba lô, một tay bệnh nhân cố định trong tư thế giơ lên trên đầu giường, tay kia cố định xuôi xuống phía dưới giường, còn 2 chân thì buộc chụm vào nhau xuống phía cuối giường.
- Cho ngửi bông cồn (xem hướng dẫn ở phần trên).
- Chế độ hộ lý cấp I (theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp 3 giờ/lần).
- Hút đờm dãi (nếu có).
- Thở oxy nếu có khó thở.
- Lấy máu xét nghiệm huyết học và sinh hoá, lưu ý xét nghiệm men gan (SGOT, SGPT), glucose máu.
- Dùng thuốc:
+ Seduxen 10mg X 2-4 ống/tiêm bắp sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều.
+ Vitamin B1 100mg X 2 ống/tiêm bắp sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều.
+ Piracetam 1g X 4 ống/tiêm tĩnh mạch chậm.
+ Ringer lactat 500ml X 2 chai, truyền tĩnh mạch XXX giọt/phút.
Nếu bệnh nhân có hoang tưởng và ảo giác rầm rộ có thể cho thêm:
+ Haloperidol 5mg X 2 ống.
+ Pipolphen 50mg X 2 ống.
Hai loại thuốc này trộn vào với nhau trong cùng một xi lanh (có thể trộn cùng cả seduxen); tiêm bắp sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều.
Lưu ý:
- Bệnh nhân xơ gan và viêm gan dùng 2 ống seduxen (loại 10mg)/ngày.
- Chỉ truyền thanh huyết ngọt (dextroge, glucoza) khi xét nghiệm glucoza máu cho thấy trong giới hạn bình thường.
- Dùng thuốc 3 ngày, sau đó chuyển sang điều trị bệnh nhân như các bệnh nhân có hội chứng cai rượu (xem phần điều trị nghiện rượu).