và hơi xiên, dài 20-25cm, mặt ngoài màu đen, nhạt dần về phía dưới. Đế sừng có răng cưa nhỏ gọi là “mã nha biên” lồi lõm không đều. Quanh mã nha ở phần giữa, có những vân dọc và gai cứng thẳng chưa gọt hết gọi là “cương mao”. Đầu sừng nhỏ, nhẵn bóng, mặt trước có một rãnh dọc, dài 12-16cm, dưới đó có một u lồi gọi là “địa cương” dài khoảng 8cm, cao 4cm. Đế sừng to, hình tròn dài, phía trước hẹp, phía sau rộng hình mai rùa, dài 16-24cm, rộng 12-16cm, màu xám đen hoặc nâu đen, nhạt dần ra phía ngoài thành nâu xám hoặc vàng xám, đáy lõm sâu khoảng 0,4-0,8cm, có nhiều chấm tròn dày đặc gọi là “sa-đê”, chất sừng cứng, rắn và nặng, thớ dọc đều. Không có thớ vặn. Phiến chẻ có màu trắng xám, điểm lấm tấm như hạt vừng hoặc có những đường chỉ nhỏ ngắn.
Việc sử dụng thuốc từ dược liệu để phòng và chữa bệnh từ lâu đã trở nên rất quen thuộc với nhân dân. Tuy nhiên, để bảo đảm có hiệu quả chữa bệnh tốt với tính khoa học hợp lý và độ an toàn cao, cần lưu ý nhận dạng và phân biệt chính xác để có dược liệu đúng chất lượng.
Mật ong
Nhận dạng: đó là một chất lỏng, sánh, màu trắng đục, vàng nhạt hoặc vàng sẫm, thơm đặc trưng của mùi mật ong, vị ngọt dịu, để lâu thành ngọt đậm, khé cổ, có đường kết tinh ở dưới gọi là châu.
Cách thử để phát hiện thật giả
Nhỏ vài giọt mật ong lên giấy thấm hoặc giấy bản, nếu là mật ong thật sẽ không có vết loang xung quanh giọt mật. Ngược lại, vết loang nhanh và rộng là mật có pha trộn
Nhỏ một giọt mật ong vào cốc nước trong, nếu giọt mật lắng ngay xuống đáy cốc với hình dạng nguyên vẹn là mật ong thật.
Lấy một phần mật ong hòa đều với phần nước lọc, để yên. Mật ong nguyên chất phải có dung dịch trong suốt. Nếu bị pha trộn, mật sẽ có cặn lắng dưới đáy dung dịch.
Nhỏ vài giọt iod vào mật ong, khuấy đều. Mật nguyên chất không biến màu. Nếu bị trộn nước cháo hoặc nước cơm, mật sẽ có màu xanh lơ; nếu có màu đỏ là mật đã lẫn nước màu.
Xạ hương
Nhận dạng: túc xạ có hình cầu hoặc hình bầu dục, tròn hoặc dẹt, đường kính 3,5-6cm, nặng 30-60g tùy theo tuổi của hươu xạ. Miệng túi hơi phẳng, có nhiều lông mịn, màu trắng hoặc nâu xám, mọc rất sít nhau hoặc áp sát thành hình khoáy, ở giữa có một lỗ nhỏ, đường kính 5mm, khi cạo sạch lông thì phần da ở đó có màu nâu. Mặt ngoài của túi màu nâu đen, không có lông, có tính co giãn. Mặt trong có lớp màng da ở giữa trong suốt, màu tro bạc, lớp màng da ở trong màu đỏ nâu. Trong cùng là chất xạ (xạ hương) ở dạng quánh đặc như sữa, khi khô thành bột hoặc thành hạt lổn nhổn với kích thước không đều, bóng, có mùi thơm hắc rất đặc biệt, để lâu không mất mùi.
Ở dạng bột, chất xạ màu vàng nâu, nâu đỏ hay đỏ tím, chất mềm có dầu. Lấy tay ve tròn, bột tụ lại nhưng không dính vào nhau thành khối. Khi mở tay ra, bột lại tả rời ngay. Ở dạng hạt (tốt hơn), hình tròn hay dẹt, phần lớn có màu đen tím, có vân mờ sáng bóng.
Cách thử để phát hiện thật giả :
Xạ hương nguyên chất có mùi thơm hắc rất mạnh, bền, pha loãng thì mùi trở nên dịu hơn và rất dễ chịu.
Lấy ít xạ hương cho vào bát nước nóng, thấy tan ngay, không có cặn, dung dịch có màu vàng nhạt, mùi thơm nồng nặc.
Cho xạ hương vào lửa thấy lách tách, lóe sáng, mùi thơm mạnh, sau để lại những nốt dầu trong.
Trộn với camphor, vilerian, tinh dầu tràm, acid hydrocyamic, xạ hương sẽ mất hết mùi đặc trưng của nó.
Mật gấu (hùng đởm)
Nhận dạng: túi mật có hình trứng dẹt, to nhỏ không đều, phần miệng thuôn nhỏ hẹp, phần đáy phình to, thường dài 10-20cm, rộng 5-8cm. Mặt ngoài nhẵn, màu nâu xám hoặc đen xám, có những nếp gấp còn bám lớp màng mỏng mỡ thịt. Khi soi túi ra ánh sáng, thấy phần trên trong suốt, phần giữa và phần đáy có màu sẫm. Nếu cắt mở túi, sẽ thấy nước mật khô gọi là “đởm nhân” ở dạng cục, khối, dạng hạt lổn nhổn hoặc dạng sánh đặc màu sẫm nhạt không đều, óng ánh, mùi thơm dịu.
Chất mật là thứ “đởm nhân” trong, phách, chất xốp giòn, vị đắng, sau ngọt gọi là “kim đởm”, “đồng đởm” hay “thiết đởm”. Thứ màu lục vàng, ít óng ánh, chất kém giòn là “thái hoa đởm”.
Dược liệu tốt là thứ túi to, “đởm nhân” màu vàng kim loại, óng ánh, vị đắng, sau ngọt; “đởm nhân” màu lục vàng, vị đắng, sau không thấy ngọt là loại kém.
Cách thử để phát hiện thật giả
Dùng phương pháp hóa học để phân lập acid ursodesoxycholic (chỉ có trong mật gấu), rồi thử các tính chất đặc trưng của acid này như độ chảy (202o), độ quay cực (+57o07), phản ứng màu (đỏ với dung dịch acid ursodesoxycholic trong nước, đường và acid sulfuric đặc; xanh lục với dung dịch acid ursodesoxycholic trong chloroform, acetic anhydrid và acid sulfuric đặc.
Lấy ít mật gấu nghiền nát, cho vào cốc nước, mật sẽ quay tròn và lắng dần thành những sợi vàng thòng thẳng xuống đáy cốc mà không lan tỏa ra.
Láng qua nước lã cho ướt lên mặt một cái đĩa, rồi lấy một ít mật gấu đặt vào giữa đĩa, nước sẽ tách ra khỏi mật.
Nếm mật gấu lúc đầu thấy đắng, sau ngọt mát và dính lưỡi, ngậm lâu sẽ tan hết, mùi thơm nhẹ và không tanh.
Đem mật gấu đốt lửa, không thấy cháy, chỉ thấy sủi bọt.
Sừng tê giác
Nhận dạng: dược liệu có hình chùy tròn, hoặc hơi có cạnh, đầu múp tẩy hoặc nhọn
Loại sừng tốt có màu đen bóng, không nứt, sa-đê tròn to, mùi thơm nhẹ.
DS. CK2. Đỗ Huy Bích
(Nguồn Sức khoẻ & Đời sống)
Bình luận đóng