Nhận định chung
Chửa trứng (hydatidiform mole) là một biến đổi bệnh lý của nguyên bào nuôi. Bệnh đặc trưng bằng sự thoái hoá nước của các gai rau (hydropic degeneration) và sự quá sản của các nguyên bào nuôi (trophoblastic hyperplasia).
Có 2 loại chửa trứng: chửa trứng bán phần là khi chỉ một số gai rau trở thành các nang nước, trong buồng tử cung có thể có phần thai nhi. Chửa trứng hoàn toàn là toàn bộ các gai rau trở thành nang nước, trong buồng tử cung không có phần thai. Chửa trứng là bệnh lành tính những có khoảng 15% trường hợp chửa trứng hoàn toàn và khoảng 3% chửa trứng bán phần trở thành ung thư nguyên bào nuôi.
Phác đồ điều trị chửa trứng
Nạo hút trứng
Nạo hút trứng ngay sau khi được chẩn đoán để đề phòng sẩy tự nhiên gây băng huyết.
Kỹ thuật hút trứng
+ truyền oxytocin + kháng sinh.
Thường dùng máy hút dưới áp lực âm để hút nhanh, đỡ chảy máu.
Trong khi hút phải truyền tĩnh mạch dung dịch Glucose 5% pha với 5 đơn vị Oxytocin để giúp tử cung co hồi tốt, tránh thủng tử cung khi nạo và cầm máu.
Có thể nạo lại lần 2 sau 2 – 3 ngày nếu lần thứ nhất không đảm bảo hết trứng. Ngày nay, dưới hướng dẫn, kiểm tra của siêu âm thường nao sạch ngay trong lần đầu.
Sau nạo phải dùng kháng sinh chống nhiễm trùng.
Gửi tổ chức sau nạo làm xét nghiệm giải phẫu bệnh. Hiện nay do thường được phát hiện sớm nên thai nhỏ có thể hút bằng xylanh Karman như hút thai thường, tốt nhất là hút dưới hướng dẫn của siêu âm, đảm bảo sạch và an toàn nên chỉ cần hút một lần và chỉ dùng thêm thuốc co hồi tử cung khi có chảy máu (một số tác giả cho rằng việc dùng Oxytocin hay misoprostol làm tăng co bóp tử cung có thể dẫn đến sự khuếch tán các nguyên bào nuôi và làm tăng tỷ lệ u nguyên bào nuôi).
Phẫu thuật cắt tử cung dự phòng
Cắt tử cung toàn phần cả khối hoặc cắt tử cung toàn phần sau nạo hút trứng thường được áp dụng ở các phụ nữ không muốn có con nữa hoặc trên 40 tuổi và trường hợp chửa trứng xâm lấn làm thủng tử cung.
Theo dõi sau nạo trứng
Lâm sàng:
Toàn trạng, triệu chứng nghén, triệu chứng ra máu âm đạo, sự nhỏ lại của nang hoàng tuyến và sự co hồi tử cung.
Cận lâm sàng:
+ Định lượng βhCG mỗi tuần một lần cho đến khi âm tính 3 lần liên tiếp. Sau đó định lượng mỗi tháng một lần cho đến hết 12 tháng.
+ Siêu âm: tìm nhân di căn, theo dõi nang hoàng tuyến.
Tiến triển bệnh lý:
Những tiến triển không tương ứng với các tiêu chuẩn lành bệnh được coi là tiến triển không thuận lợi.
Bao gồm:
+ Tử cung vẫn to, nang hoàng tuyến không mất đi hoặc xuất hiện nhân di căn.
+ ß-hCG: phương tiện chính để theo dõi và chẩn đoán biến chứng sau loại bỏ thai trứng (bao gồm cả các trường hợp được cắt tử cung dự phòng). Nồng độ EhCG lần thử sau cao hơn lần thử trước Nồng độ EhCG sau 3 lần thử kế tiếp không giảm (giảm dưới 10%) Nồng độ EhCG >20 000 UI/L sau nạo trứng 4 tuần Nồng độ EhCG >500 UI/L sau nạo trứng 8 tuần Nồng độ EhCG >5 UI/L sau nạo trứng 6 tháng.
Thời gian theo dõi: 2 năm, ít nhất 12 – 18 tháng.
Tránh thai 1 năm và có biện pháp ngừa thai phù hợp.