Tên khác: nuôi dưỡng qua ruột.

Định nghĩa

Cung cấp các dịch dinh dưỡng qua ống thông dạ dày hoặc dạ dày-tá tràng.

Chỉ định

Những bệnh nhân bị bệnh cấp tính hoặc mạn tính, ở trong tình trạng mất dinh dưỡng, bị chứng chán ăn, bị những rối loạn về nuốt, kiệt sức, không thể tiêu hoá tự nhiên khẩu phần năng lượng cần thiết (1800 kcal) để có thể khỏi bệnh, và tiếp tục giảm cân mặc dù được điều trị đúng đắn. Bệnh nhân vẫn phải có hoạt động nhu động ruột, khả năng tiêu hoá và hấp thụ ở ruột đầy đủ. Suy dinh dưỡng mạn tính dễ chẩn đoán ở những bệnh nhân bị bệnh mạn tính, đã từ lâu mắc một bệnh gây suy yếu. Ngược lại, suy dinh dưỡng cấp tính thường bị che dấu bởi bệnh cảnh ồn ào của một bệnh cấp tính, ví dụ những bệnh nhân ở các khoa chăm sóc tăng cường, trong những trường hợp này thì thường yêu cầu cung cấp chất dinh dưỡng lùi xuống hàng thứ yếu.

Kỹ thuật

Người ta đã bỏ không sử dụng những ống thông cỡ to, mà hay dùng những ống thông nhỏ hơn, dài hơn, đầu cuối có thể đưa vào tận tá tràng (xác định vị trí của ống thông trước khi bơm thức ăn). Dịch dinh dưỡng có thể đưa vào:

  • Bằng sức đẩy đơn giản của trọng lượng: mỗi giây một giọt hoặc 200 ml mỗi nửa giờ.
  • Bằng bơm từng lúc, qua ống bơm 50 ml mỗi lần.
  • Bằng bơm đặc biệt với lưu lượng thay đổi và theo chương trình.

Những dịch dinh dưỡng này là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn mọc. Do đó, việc chế biến, dự trữ, vận chuyển và cho ăn phải được thực hiện càng vô khuẩn càng tốt.

Bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng ống thông dạ dày phải đứng dậy và đi bách bộ vẫn đeo ống thông, nếu không có chống chỉ định. Ngay khi có thể thì thử cho bệnh nhân ăn bằng đường tự nhiên. Nuôi dưỡng qua ống thông dạ dày còn có thể phải kết hợp với nuôi dưỡng thêm bằng đường tĩnh mạch.

Các dịch dinh dưỡng dể nuôi dưỡng bệnh nhân

  • Dịch nuôi dưỡng phải lỏng, không có cặn và có mùi vị dễ chịu.
  • Trừ trường hợp suy thận, dịch nuôi dưỡng phải giầu protein.
  • Nồng độ phân tử gam không được vượt quá 300 mOsm/kg, để không gây ra ỉa chảy. Tuy nhiên có thể tăng nồng độ phân tử gam lên dần khi bệnh nhân dung nạp tốt.
  • Có nhiều chế phẩm thương mại, có thể dùng ngay, mang lại khoảng 1000 kcal và 20-40g protein mỗi lít (biệt dược Dripsol, Enteronutryl, Flexinutril, Lipodoral, Realmentyl, Renutryl, Suractim, Vivonex). Bắt đầu thường cho 1000 kcal mỗi ngày, rồi tăng dần lên tới 4000 kcal mỗi ngày.
  • Có thể pha chế những dịch nuôi dưỡng bệnh nhân theo cách thủ công, ví dụ:

25 g sữa bột toàn phần;

2 lòng đỏ trứng;

100 ml nước trái cây;

10 g dầu đậu nành hoặc dầu ngô; chế phẩm đa sinh tố;

400-500 ml nước.

Dịch pha chế thủ công này đưa lại cho bệnh nhân khoảng 500 kcal và 30 g protein. Có thể thêm vào dịch chất thịt (thịt đùi lợn, gan bê), các thứ rau (cà rốt, rau mồng tơi), khoai tây, tất cả đều phải nghiền nhỏ trong máy xay sinh tố. Những dịch làm theo cách thủ công này, thay đổi luôn luôn về màu sắc và mùi vị, thì thường có lợi là làm cho bệnh nhân ăn ngon hơn.

Biến chứng

  • ỉa chảy, nhất là vào thời kỳ bắt đầu nuôi dưỡng qua ống thông, nếu độ đậm đặc của dịch cao quá. Táo bón do thiếu chất bã, nếu thời kỳ nuôi dưỡng qua ống thông kéo dài.
  • Trào ngược dạ dày-thực quản và nguy cơ viêm phổi do hít phải chất từ dạ dày, thậm chí ngạt thở. Nguy cơ này hay xảy ra ở bệnh nhân trong tình trạng sốc và bị liệt ruột.
0/50 ratings
Bình luận đóng