ĐẠI CƯƠNG

Đau vùng cổ – vai là bệnh lý khá phổ biến, do nhiều nguyên nhân, thường xảy ra ở người lớn, đặc biệt ờ người trên 40 tuổi, làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động. Theo K Jurgen, tỷ lệ mắc bệnh đĩa đệm cột sống (cột sống) cổ chiếm 36,1%, đứng thứ 2 sau bệnh lý đĩa đệm cột sống thăt lưng, ở các trung tâm chuyên khoa thần kinh, chứng đau vùng cổ – vai chiếm tới 18,2% cơ câu mặt bệnh điêụ trị nội trú. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân các chứng bệnh đau cổ – vai, đông thời điêu trị và dự phòng các chứng bệnh này là một yêu cầu cấp thiết đối với đời sống xã hội, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều chuyên ngành như nội, ngoại khoa, điều trị lý liệu, phục hồi chức năng.

Nhắc lại sơ lược giải phẫu, sinh lý cột sống cổ

Cột sống cỏ 32 – 33 đốt, trong đó 7 đốt sống cổ từ C1 – C7. Cột sống cổ tạo thành đường cong ưỡn ra trước. Giữa hai đốt sống từ C2 trở xuống có các đĩa đệm gian đốt sống, mỏm ngang có lỗ ngang cho động mạch đốt sống đi qua; lỗ liên đốt sống có các rễ thần kinh tuỷ sống đi qua, vì vậy, khi các mỏm móc bị thoái hoá tạo gai xương sẽ kích thích hoặc chèn ép rễ thần kinh và ảnh hưởng đến động mạch đốt sống.

Các dây chằng đốt sống có tác dụng hạn chế sự chuyển động và bảo vệ các thành phần trong ống sống như tuỷ sống cổ và các rễ thần kinh.

ống sống được tạo thành bởi thân đốt sống, các cuống và cung sau đốt sống, kéo dài từ lỗ chẩm đến xương cụt. Tuỷ sống nằm trong ống sống, sau đó là các rễ thần kinh, màng nhện, màng cứng, các mạch máu nuôi dưỡng tuỷ. Các tổ chức ngoài màng cứng gồm tổ chức mỡ và các tĩnh mạch.

Từ đoạn tuỷ sống C1 – C4 tách ra các rễ bụng (rễ trước) để tạo thành đám rối thần kinh cổ, nằm ở sát 4 đốt sống cổ trên. Các nhánh của đám rối này chi phối cho da, cơ vùng đầu và cổ; rê C1 và C2 tạo thành các dây thần kinh chẩm lớn (dây Arnold), chẩm bé, tai lớn, dây xuyên da của cổ và dây thần kinh trên đòn. Các rễ thần kinh từ C5 – D1 tạo thành đám rối cổ, vai cho ra các dây thần kinh chi phối chi trên.

Hệ thần kinh giao cảm cổ có hai chuỗi thần kinh giao cảm vùng cột sống cổ, tác động tới tuần hoàn, tuyến mồ hôi và nang lông. Có 3 hạch cổ phân bố thần kinh thực vật cho nội tạng, vùng cổ, đầu và hai tay.

Nguyên nhân

Do biến đổi sinh lý – bệnh lý ở tất cả các thành phần cấu trúc, chức năng; biểu hiện dưới các dạng: thoái hoá, viêm, u, chấn thương cột sống cổ.

Do nguyên nhân cơ học gây nên các hội chứng bệnh lý cột sống cổ như: phong cách sinh hoạt thiếu khoa học, dùng cổ chịu tải trọng quá mức, sử dụng bàn ghế không đúng quy cách buộc cổ phải thường xuyên ở tư thế không đổi, quá gù, quá ưỡn. Do các ngành nghề buộc phải giữ cổ ở các tư thế thường xuyên bất lợi với các chức năng sinh lý của cột sống như các nghề đánh máy, kế toán, thợ nề, thợ quét vôi, lái xe cơ giới, vận động viên thể thao, nghệ sĩ xiếc, nghệ sĩ dương cầm, vĩ cầm…

Phân loại

+ Vì bệnh lý vùng cổ – vai rất phong phú, đa dạng nên có các hình thái lâm sàng sau:

Hội chứng cổ – đầu.

Hội chứng cổ – vai – cánh tay.

Hội chứng cổ – tuỷ sống.

Hội chứng cổ – nội tạng.

Hội chứng khe cơ bậc thang.

Hội chứng cổ sau chấn thương.

Các chứng bệnh vùng cổ không do thoái hoá

Hội chứng động mạch sống – nền.

Hội chứng thần kinh thực vật.

PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH Ở CỘT SỐNG CỔ

Lâm sàng

+ Trước tiên cần hỏi kỹ về chứng đau để xác định vị trí xuất phát và sự lan toả của đau, cường độ đau, tính chất đau; yếu tố liên quan như tuổi, nghề nghiệp, thay đổi thời tiết, vận động trong tư thế bất lợi của cổ, chấn thương cũ và mới; đồng thời xác định các triệu chứng kèm theo như chóng mặt, đau đầu và các triệu chứng rối loạn thần kinh khu trú.

Khám tại chỗ vùng cổ – vai như quan sát tư thế của cổ để phát hiện vẹo, nghiêng, gù, quá ưỡn, thẳng cứng, u, lồi lõm cột sống; teo, nhẽo của các khối cơ trên vai, cơ delta, cơ cánh tay; tìm các điểm đau tại cột sống cổ bằng cách ấn dọc gai sau, ấn cạnh cột sống cổ, điểm đau trên vai, khe khớp và các tổ chức xung quanh khớp vai. Chú ý khám điểm Arnold ở giữa hõm hai bên của ụ chẩm. Sờ nắn các khối cơ ở gáy, cổ, các đai vai để xác định trạng thái cơ teo nhẽo, co cứng hoặc viêm tấy.

Khám vận động cột sống cổ theo chiều cúi (khoảng cách cằm – xương ức), ưỡn, quay bên (khoảng cách cằm – mỏm quạ), xoay cổ theo hai chiều phải – trái để xác định mức độ hạn chế vận động của cột sống cổ, cần chú ý cố định xương bả vai trong khi khám khớp vai – cánh tay.

Khám thần kinh: khi có nghi ngờ hội chứng tuỷ – cổ thì phải khám kỹ để phát hiện các triệu chứng thần kinh khu trú, chú ý các rễ thần kinh của đám rối cổ.

Khám toàn thân: chú ý hệ tim mạch như huyết áp, hệ động mạch thái dương, động mạch cảnh và triệu chứng của các cơ quan nội tạng có liên quan đến các rối loạn thần kinh thực vật. Trường hợp cần thiết cho khám các chuyên khoa tai – mũi – họng, răng – hàm – mặt để xác định các triệu chứng lâm sàng này do nguồn gốc bệnh lý cột sống cổ, hay do tổn thương thực thể tại các cơ quan đó.

Cận lâm sàng

+ Trên cơ sở khám xét lâm sàng tuỳ theo các hướng chẩn đoán có thể lựa chọn một số xét nghiệm cần thiết sau:

Chụp X quang cột sống cổ 4 tư thế (thẳng, nghiêng; chếch 3/4 phải, 3/4 trái).

Ghi điện não, lưu huyết não, điện tim, điện cơ.

Trường hợp khó chẩn đoán có thể cho chụp tuỷ, chụp động mạch đốt sống – thân nền, chụp CT.Scan, chụp cộng hưởng từ cột sống cổ.

CÁC HỘI CHỨNG LÂM SÀNG CỘT SÓNG CỒ

Đau đầu do đau thần kinh chậm lớn

Điểm đau ngay ở dưới da đầu, nhất là khi ấn vào điểm lõm bên của xương chẩm là nơi thoát ra của dây thần kinh chẩm. Đau có thể lan ra một bên của khu sau đầu, với tính chất chủ quan, ê ẩm hay dội lên khi bị đè ép; đặc biệt đau nhói buốt khi thầy thuốc ấn vào điểm thoát ra của dây thần kinh chẩm. Bệnh thượng do tổn thương hay kích thích ở 1 bên, đôi khi ở cả 2 bên; nhiều khi kèm theo điểm đau ở đôt C1 – C3 và cả điểm đau rễ cạnh cột sống cổ tương ứng với C2 cùng bên. Tuỳ theọ nguyên nhân gây bệnh, đau dây thần kinh chẩm có thể điều trị khỏi bằng các thuốc giảm đau, chông viêm hay phong bế tại các điểm xuát chiếu bằng các loại thuốc novocain và hydrocortison, vitamin nhóm B, thuôc dãn cơ, corticoid. Khi các rễ này bị kích thích hay bị đè ép cơ học do gai xương, mỏm móc hay thoái họá đĩa đệm cột sống cổ, có thể cho kéo dãn cột sống cổ kết hợp các biện pháp lý liệu như chườm nóng, gối điện, sóng ngắn.

Đau đầu – cổ do bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có thể khởi phát từ từ, trên cơ sở đĩa đệm cột sống cổ đã bị thoái hoá hoặc sau một chấn thương gấp quá mức cột sống cổ.

Cơ chế bệnh sinh thoát vị đĩa đệm cột sống cổ do 2 quá trình: thoái hoá sinh học theo lứa tuổi kết hợp với tác động của yếu tố cơ học, miễn dịch, chuyển hoá và cột sống cổ phải chịu áp lực trọng tải của đầu.

Triệu chứng lâm sàng thoát vị đĩa đệm cột sống cổ: đau cột sống cổ, đau tăng lên khi vận động, đau vùng gáy 1 hoặc 2 bên; hạn chế vận động cột sống cổ khi gấp, duỗi, nghiêng, xoay.

Khám lâm sàng: bệnh nhân có hội chứng cột sống cổ, có điểm đau cột sống khi ấn vào gai sau, có điểm đau cạnh sống, co cứng cơ cạnh sống cổ nên bệnh nhân có tư thế chống đau “vẹo cổ”, tầm vận động cột sống hạn chế.

Bệnh nhân có hội chứng rễ thần kinh: đau vùng gáy theo phân bố cảm giác của các rễ thần kinh cổ (C5, C6, C7, D1) với biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng vai – gáy hoặc hội chứng cổ – vai – cánh tay, rối loạn vận động; liệt và teo một số cơ cánh tay, cẳng tay, ngón tay…

Hội chứng chèn ép tuỷ cổ tăng dần theo thời gian; tuỳ vị trí thoát vị đĩa đệm cột sống cổ cao hay thấp mà có các triệu chứng sau: liệt ngoại vi 2 chi trên, liệt trung ương 2 chi dưới, tăng trương lực cơ 2 chi dưới, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bó tháp, rối loạn cơ vòng trung ương.

Cận lâm sàng: chụp X quang cột sống cổ các tư thế thẳng, nghiêng, chếch 3/4 phải, chếch 3/4 trái thấy hình ảnh thoái hoá cột sống cổ như gai xương, mỏ xương, hẹp khe gian đốt, hẹp lỗ tiếp hợp. Chụp tuỷ cản quang, chụp CT cột sống cổ, chụp cộng hưởng từ cột sống cổ sẽ thấy vị trí thoát vị đĩa đệm cột sống cổ và chèn ép tuỷ cổ.

Điều trị: nội khoa dùng thuốc giảm đau, chống viêm và corticoid, thuốc dãn cơ, vitamin nhóm B, phong bế, vật lý trị liệu và cố định cột sống cổ bằng đai cổ.

Điều trị ngoại khoa khi có chèn ép rễ – tuỷ cổ.

Hội chứng động mạch đốt sống – thân nền

Động mạch đốt sống – thân nền cung cấp máu cho gian não và thân não để đảm bảo chức năng sống của cơ thể, cho nên mối quan hệ giữa động mạch đốt sống và cột sống cổ rất mật thiết.

Sau khi tách từ động mạch dưới đòn, động mạch đốt sống đi qua các lỗ mỏm ngang cột sống cổ từ C6 đến C2, chui qua lọ chậm to đến cầu não tạo thành động mạch thân nền, đường kính trung bình của động mạch đốt sống bằng 4,9 – 5mm, tương đương với đường kính của lỗ mỏm ngang cột sống cổ; đồng thời còn 1 – 2 tĩnh mạch đi kèm nên mọi quá trình biến đổi hoặc chèn ép ở cột sống cổ đều ảnh hưởng đến sự lưu thông dòng máu nuôi não.

Lâm sàng thường gặp các nguyên nhân: hẹp lòng mạch do vữa xơ động mạch và hẹp lòng mạch do đè ép (như mỏ gai xương, hư xương sụn cột sống cổ, viêm khớp sống cổ, hẹp lỗ mỏm ngang, dị dạng, đè ép khi quay cổ quá mức…).

Các triệu chứng lâm sàng thường gặp như đau đầu vùng chẩm và hốc mắt như kiểu đau dây V, hoa mắt, chóng mặt có hệ thống, nôn và buồn nôn, đi lại lảo đảo không vững, yếu mệt toàn thân từng cơn, nhìn đôi, rối loạn phát âm, rối loạn nuốt, có hội chứng cổ cục bộ và hội chứng rễ – dây thần kinh (như hội chứng cổ – vai hoặc hội chứng cổ – vai – cánh tay).

Điều trị: tìm nguyên nhân để điều trị theo nguyên nhân; bao gồm thuốc dãn mạch, tăng cường tuần máu não, chống tăng huyết áp, vữa xơ động mạch; điều trị thoái hoá cột sống cổ, giảm đau chống viêm, dãn cơ vân, vitamin nhóm B, vật lý trị liệu.

Hội chứng cổ cục bộ

Nguyên nhân đau do các quá trình thoái hoá và tình trạng sau chấn thương của các đoạn vận động cột sống cổ, gây ra kích thích cơ học vào dây chằng dọc sau, các bao khớp của cột sống và cốt mạc đốt sống.

  • Đau đầu do tư thế nghề nghiệp: thường gặp ờ những người lao động mà cộng việc bắt buộc phải cúi đầu liên tục như thợ thêu, thợ may, thợ đánh máy; hoặc những nghề buộc phải ưỡn cổ quá mức như thợ mỏ, thợ nề, thợ quét vôi… Cơ chế đau chủ yếu là do rối loạn trương lực cơ và căng kéo dây chằng.
  • Đau đầu do co cứng cơ bù trừ ở những người gù, quá ưỡn, lệch vẹo cột sống cổ.

Lâm sàng, đầu tiên là tăng trương lực cơ ở các vùng vai – gáy một cách đột ngột sau vận động cổ. Các yếu tố phụ trợ có thể là nhiễm lạnh, gió lùa, ngồi lâu, cúi đầu ra trước. Nếu đoạn trên cột sống cổ bị tổn thương thì sẽ ảnh hưởng đến cơ thang vùng vai – đòn; nếu đoạn dưới cột sống cổ bị tổn thương thì đau khu trú ờ 2 xương bả vai, các cơ vùng vai – gáy cũng bị căng cứng, vận động cột sống cổ hạn chế, đôi khi đau có thể lan tới vùng sau và ngoài cánh tay.

Đau cột sống cổ cục bộ do căn nguyên khác như các loại u thần kinh của dây thần kinh tuỷ sống, u màng cứng, di căn ung thư từ các cơ quan khác đến, viêm đốt sống, bệnh viêm cột sống dính khớp…

  • Dự phòng: cần có chế độ nghỉ ngơi thích hợp, tránh mang vác, xách vật nặng không cân đối; khi ngồi làm việc hoặc ngồi xe đường dài nên dùng ghế có tấm đỡ cổ và lưng.
  • Điều trị: dùng các thuốc giảm đau, chống viêm, giãn cơ, vitamin nhóm B.

Các biện pháp không dùng thuốc như bấm huyệt, châm cứu, thể dục liệu pháp, xoa bóp, nắn chỉnh cột sống, điều trị lý liệu, kéo dãn cột sống cổ cần cân nhắc và chỉ định có chọn lọc.

Vẹo cổ (torticolis)

  • Vẹo cổ bẩm sinh: do dị tật của cơ ức – đòn – chũm thường được phát hiện ở tuổi học trò và chỉ điều trị được bằng phẫu thuật.
  • Vẹo cổ chấn thương: do sai khớp hoặc gãy đốt sống cổ.
  • Vẹo cổ cấp: là một thể đặc biệt của hội chứng cổ cục bộ, do hư xương sụn cột sống cổ, gây rối loạn và hạn chế vận động cột sống cổ. Cơ chế vẹo cổ cấp là do sự kẹt, nghẽn các tổ chức mô, mỡ và liên kết ở các khớp nhỏ của cột sống, gây chẹn các khớp đốt sống ở tư thế sai lệch, có thể còn do bệnh thấp kết hợp.

Khám lâm sàng thấy: đầu người bệnh vẹo hẳn sang một bên, sờ nắn thấy căng cơ rõ rệt ở các cơ vùng vai – gáy; các động tác vận động cổ về phía bên đối diện hoàn toàn bất lực. Toàn bộ cột sống cổ ngáy đơ, chắc, không có dấu hiệu tổn thương thần kinh. Chụp X quang cột sống cổ thường có hình ảnh hư xương sụn cột sống cổ nhẹ hoặc bình thường.

Điều trị:

+ Đối với thể nhẹ: có thể dùng một vài loại thuốc giảm đau thông thường và xoa bóp cơ vùng cổ – vai.

+ Đối với thể cấp: BN cần nghỉ ngơi, dùng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid như analgin, voltaren, tilcotil…; nên dùng các thuốc chống co cứng cơ như myonal, mydocalm, coltramyl; có thể phong bế cạnh cột sống cổ bằng novocain + hydrocortisol kết hợp các biện pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt…

Hội chứng cổ – vai – cánh tay

Hội chứng cổ – vai – cánh tay có thể do thoát vị đĩa đệm hoặc do thoái hoá của mỏm móc đốt sống kích thích vào rễ thần kinh cổ.

  • Đau vai – cánh tay do lồi và thoát vị đĩa đệm: thường gặp ở vị trí sau bên chèn ép rễ thần kinh gây đau, tư thê sai lệch cột sống và những triệu chứng thần kinh khu trú, thường xảy ra ở người lớn từ 30 – 50 tuổi. Các triệu chứng xuât hiện cấp tính như đau cánh tay theo dải da thuộc vùng rễ thần kinh bị chèn ép, vẹo cổ và cột sống cổ ở tư thế gù; ho, hắt hơi đều làm tăng kích thích cảm giác đau. Trên phim chụp X quang cột sống cổ thường thây cột sống cổ thẳng đờ ở phía trên đĩa đệm bị tổn thương, giảm chiêu cao đĩa đệm rõ rệt, có triệu chứng hư đốt sống hay hư xương sụn ờ giai đoạn muộn. Chẩn đoán xác định bằng chụp cắt lớp vi tính, tốt nhất là chụp cộng hưởng từ hạt nhân.
  • Đau vai – cánh tay do chồi xương ở mỏm móc: thường gặp ở BN trên 50 tuổi do các gai xương ở thân đốt và chồi xương ở mỏm móc. Lâm sàng đau canh tay do kích thích rễ thần kinh bởi chói xương ở mỏm móc hay gặp hơn do thoát vị đĩa đệm. Mỏm móc gây hẹp ¡5 liên đốt, kích thích hoặc chèn ép vào rê thần kinh và mạch máu đi qua đó. Các triệu chứng xuất hiện từ từ, không mạnh mẽ như trong thoát vị đĩa đệm. Bệnh nhân hay đau về đêm, cảm giác kiến bò và tê bì dải da tương ứng thuộc các rễ thần kinh bị xâm phạm. Trên phim chụp X quang tư thế chếch 3/4 cột sống cổ thây mỏm móc chèn vào lỗ liên đốt. Tiến triển của đau vai – cánh tay do chồi xương mỏm móc thường diễn biến mạn tính và có những đợt tái diễn.
  • Hội chứng đau rễ thần kinh cổ: tuỳ thuộc mức độ của tác nhân gây bệnh và các rễ thần kinh tuỷ cổ (kích thích, chèn ép) sẽ xuất hiện hội chứng đau 1 rễ hoặc nhiều rễ thần kinh, có khi ở cả 2 bên; thường xuất hiện nhất là đau rễ C6, C7, C8, hiếm gặp ở C5.

+ Nếu đau rễ C5: đau ở phía ngoài bả vai tới nửa trên cánh tay, rối loạn vận động, rối loạn phản xạ của cơ nhị đầu cánh tay, cần chẩn đoán với viêm khớp bả vai – cánh tay.

+ Nếu tổn thương rễ C6: đau ở dải da từ mặt ngoài cánh tay, cẳng tay tới ngón cái và một phần ngón trỏ, đôi khi đau lan ra ngực. Các rối loạn phân bố thần kinh khu trú cho cơ nhị đầu và cơ cẳng tay. Phản xạ gân cơ nhị đầu giảm hoặc mất.

+ Hội chứng rễ C7: đau ở sau bên của vai – cánh tay tới giữa mặt sau và kéo dài tới ngón 2, 3, 4. Cảm giác đau và dị cảm cũng thấy ờ mặt trước của các ngón tay tương ứng. Rối loạn vận động cơ tam đầu cánh tay, cơ sấp tròn, cơ ô mô cái, giảm sức cơ trong động tác duỗi cẳng tay, giảm hoặc mất phản xạ cơ tam đầu, giai đoạn muộn có thể gặp teo cơ ô mô cái.

+ Hội chứng rễ C8: đau và dị cảm suốt dọc dải phía trong cánh tay, cẳng tay, bàn tay, tới ngón 4 – 5; rối loạn vận động các cơ gấp ngón tay, cơ liên đốt và các cơ ô mô út.

Chẩn đoán phân biệt hội chứng cổ – vai – cánh tay với các bệnh sau: các hội chứng chèn ép đám rối thần kinh cánh tay, hội chứng rễ do thoát vị đĩa đệm, hội chứng cơ bậc thang, hội chứng sườn – đòn, hội chứng ống – cổ tay, hội chứng đau khớp bả vai – cánh tay, hội chứng Pancoast – Tobias.

Hội chứng cổ – đầu

Hội chứng cổ – đầu xảy ra do động mạch đốt sống và giao cảm cổ bị chèn ép do nhiều yếu tố như lệch trục cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống do thoái hoá cột sống cổ gây hẹp lỗ mỏm ngang.

Lâm sàng: đau đầu, có các cơn chóng mặt, rối loạn nhìn và nghe, rối loạn nuốt cũng như các rối loạn tâm lý, có thể do những biến đổi sinh – cơ học của đoạn vận động cột sống cổ, trong đó vai trò của hẹp động mạch đốt sống rất quan trọng. Các biểu hiện lâm sàng trên phụ thuộc vào tư thế của cổ và đầu, có thể đau đầu thành cơn (hay nhầm với Migraine), nuốt khó, chóng mặt, ám điểm lấp lánh, ù tai…

Hội chứng cổ – nội tạng do thoái hoá cột sống

Hội chứng cổ – tim còn gọi là cơn đau thắt tim do cổ: những thay đổi bệnh lý của hạch giao cảm cổ ảnh hưởng đến chi phối thần kinh tim qua dây X. Bệnh nhân cỏ cảm giác đau như đè nén, khoan dùi ở toàn bộ vùng tim hoặc sau xương ức, cơn đau kéo dài 60 – 90 phút, có triệu chứng báo trước bằng đau ở vùng vai, đặc biệt ở vùng liên bả. Triệu chứng đau ở vùng tim tăng lên khi cử động đầu, ho hoặc nâng một cánh tay lên. Trong cơn đau vùng tim BN thấy đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, có thể có ngoại tâm thu; điện tim không có biến đổi đặc hiệu củạ thiêu máu cơ tim; chụp X quang thấy hư xương sụn cột sống cổ. Điều trị bằng nitroglycerin không kết quả; phong bế và kéo dãn cột sống cổ sẽ cắt được cơn đau vùng tim.

Hội chứng khe cơ bậc thang

Trong khoang hẹp giữa các cơ bậc thang trước và giữa có dây thần kinh cổ, các thân nhì của đám rối thần kinh cánh tay và động mạch dưới đòn chạy qua.

Lâm sàng: đau và dị cảm vùng mặt trong cánh tay, cẳng tay, bàn tay và ngón 4 – 5, đôi khi lan tới vùng chẩm; đau đặc biệt tăng lên khi xoay đầu về phía tay bị đau hoặc hít thở sâu, trường hợp đau lan xuống lồng ngực dễ nhầm với cơn đaụ thắt ngực. Bệnh nhân thấy yếu cơ, teo cơ ở tay và mô út, đặc biệt thấy căng các cơ ở cổ (nhất là cơ bậc thạng trước), có rối loạn mạch máu (tay trở nên tê cóng, tím tái, phù nề, lạnh đầu chi, nếu nặng thấy mất mạch quay).

Các chứng đau cổ do nhiễm khuẩn

Lao cột sống cổ: hay gặp ở người có tiền sử lao, đau cột sống cổ tăng dần lan ra các chi, co cứng các cơ cổ và cố định cổ ở một tư thế, trạng thái toàn thân suy sụp dần, có hội chứng nhiễm độc lao. Chụp X quang thường quy, chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ cột sống cổ cho chẩn đoán quyết định. Bệnh nhân cần được cố định và điều trị theo phác đồ chống lao.

Cốt tuỷ viêm cột sống cổ.

Viêm xương khớp nhiễm khuẩn khu trú ở cổ.

Viêm quanh khớp bả vai – cánh tay (viêm quanh khớp vai)

Đau ờ vai, khó hoạt động khớp vai, đôi khi đau lan xuống cánh tay; thường xảy ra ở người trên 40 tuổi, nguyên nhân do chấn thương hoặc vi chấn thương khớp vai. Hiện nay người ta xếp viêm quanh khớp vai vào bệnh hư khớp.

  • Lâm sàng: đau xuất hiện dần dần, nhất là khi dang tay và xoay cánh tay vào trong hoặc giơ lên đầu. Đau lan toả từ mỏm vai tới cánh tay, hạn chế vận động khớp vai rõ rệt. Bệnh nhân không thể dùng tay gãi sang vai đối diện được, nếu nặng BN có triệu chứng “khoá cứng” khớp vai, đôi khi tổn thương lan rộng xuống gây rối loạn vận động và loạn dưỡng ở bàn tay. Chụp X quang khớp vai cũng có giá trị chẩn đoán hoặc loại trừ.
  • Điều trị: có thể tiêm novocain kết hợp hydrocortison quanh khớp vai nhưng phải bảo đảm vô khuẩn tuyệt đối. Dùng các thuốc giảm đau chống viêm và corticoid đường toàn thân kết hợp với điều trị lý liệu và tập vận động.

Đau cột sống cổ do chấn thương

Chấn thương do quá cúi gây quá giãn ở phía sau và ép cột sống ở phía trước, nên có thể gãy đốt sống, rách vòng sợi phía sau, giãn dây chằng dọc sau và dây chằng liên gai; nếu tác động mạnh, các cơ ở vùng gáy có thể bị rách, đứt, tạo bọc máu tụ. Động mạch đốt sống cũng có thể bị tổn thương do chèn ép.

Chấn thương do quá ưỡn cột sống cổ làm quá căng phần mềm và đĩa đệm phía trước. Thường gặp bệnh cảnh lâm sàng của một bọc máu tụ sau hầu, với triệu chứng chính là nuốt đau. Nếu quá ưỡn cột sống cổ dễ gãy các mỏm khớp đốt sống, sai khớp đốt sống tại chỗ, có hội chứng cổ cục bộ hoặc tổn thương dây chẩm lớn; BN thấy đau ở vùng chẩm, cứng gáy, hạn chế vận động cột sống cổ.

Chấn thương do văng quật gây sai khớp, gãy xương, đau vùng gáy, hạn chế tầm vận động cột sống cổ. Hội chứng cổ – đầu sau chấn thương thường biểu hiện đau gáy dữ dội và đau thần kinh chẩm. Động mạch đốt sống cũng có thể chèn ép gây trở ngại lưu thông máu, vì vậy, có các triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não sau. Chụp X quang thường quy, cộng hưởng từ cột sống cổ cho chẩn xác định.

DỰ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ

Dự phòng

Không nên cúi gấp cổ quá lâu, những nghề nghiệp phải giữ cổ ờ một tư thế, cần có chế độ tập thể dục giữa giờ (theo bài tập thể dục vận động cột sống cổ); tránh các chấn thương vào vùng đầu và vùng cột sống cổ. Chú ý khi tuyển lựa nghề nghiệp cần phải có tiêu chuẩn khám cột sống cổ.

Điều trị

Tuỳ theo căn nguyên, cơ chế tổn thương, giai đoạn cấp hay mạn mà phương hướng điều trị có thể bảo tồn, phẫu thuật hay phục hồi chức năng.

  • Điều trị nội khoa:

+ Dùng thuốc giảm đau chống viêm non steroid:

  • Voltaren 25mg X 4 viên/ngày, chia 2 lần uống sau ăn trưa và tối.

. Tilcotil 20mg X 2 viên/ngày, chia 2 lần uống sau ăn trưa và tối.

Voltaren và tilcotil có thể dùng thuốc tiêm.

+ Chống thoái hoá khớp: như viartril – s X 2 – 4 viên/ngày, chia 2 lần uống sau bữa ăn trưa và tối (hoặc golsamin liều lượng như trên).

+ Thuốc dãn cơ vân: dùng 1 trong các loại sau

  • Myonal 50mg X 2 viên/ngày, chia làm 2 lần uống sáng chiều.
  • Mydocalm: 50mg X 4 viên/ngày, chia làm 2 lần, uống sáng chiều.

+ Vitamin nhóm B: tiêm bắp hoặc uống.

+ Corticoid: solu-medrol 40mg X 1 ống/ngày, tiêm bắp sau ăn trưa, dùng 7-10 ngày (chú ý chống chỉ định của corticoid).

+ Phong bế: novocain 1% X 5ml kết hợp hydrocortison acetat hoặc methylprednisolon acetat X 2ml, cách ngày, ở các cơ sở chuyên khoa có thể tiêm ngoài màng cứng cột sống cổ.

Kết hợp phương pháp lý liệu như bó nến, điện xung, chiếu tia hồng ngoại có tác dụng rất tốt đối với giại đoạn cấp. Đai cổ mềm nhằm cố định cột sống và giảm tải trọng cho cột sống cổ; kéo dãn cột sống cổ phải hết sức thận trọng, phải loại trừ tổn thương cột sống do lao hoặc do u. Ngoài ra còn dùng thể dục liệu pháp, nắn chỉnh, xoa bóp có tác dụng tốt đối với đau cột sống cổ, nhưng phải có chỉ định chặt chẽ.

  • Điều trị phẫu thuật: thường làm cứng phía trước cột sống, phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, phẫu thuật cắt bỏ mỏm móc lỗ liên đốt. Sau phẫu thuật phải tiếp tục điều trị phục hồi chức năng.
  • Điều trị phục hồi chức năng và thể dục liệu pháp kết hợp với các biện pháp y học cổ truyền có tác dụng rất tốt đối với các hội chứng cột sống cổ.

Tóm lại, bệnh lý cột sống cổ rất đa dạng, vì vậy, trong thực hành lâm sàng đòi hỏi người thầy thuốc phải nắm vững giải phẫu, chức năng, sinh lý cột sống cổ, kết hợp khám xét lâm sàng tỷ mỉ, chu đáo, có sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại mới có thể chẩn đoán được các hội chứng bệnh lý cột sống cổ; từ đó có phương pháp điều trị, dự phòng đúng đắn và hiệu quả cho bệnh nhân.

0/50 ratings
Bình luận đóng