Ngũ tạng bao gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, năm tạng này đều có công dụng tàng chứa tinh khí. Tinh khí là cơ sỏ của hoạt động sinh mệnh, chỉ nên cất giữ lại mà không nên tán ra cho nên gọi là ngũ tạng.

Tâm: (phụ thêm tâm bào lạc và đản trung)

Tâm chủ về sự hoạt động sinh mệnh của cơ thể, các tạng trong cơ thê phân công hợp tác dưới sự thông lĩnh của tâm mới có thể hoạt động theo quy luật nhất định được.

Vì thế, ảnh hưởng của tâm đối với sinh mệnh rất lớn, công năng chủ yếu của tâm biểu hiện ở hai mặt như sau,

  • Tâm chủ thần mình

“Thần minh” là hoạt động của tinh thần, ý thức, tư duy. “Tâm chủ thần minh” là nói tâm làm chủ của hoạt động ý thức, tư duy. Cho nên trên lâm sàng thấy nhũng bệnh có liên quan tái “thần minh1‘ như hồi hộp, phiền nóng trong tim, hoảng sợ, mất ngủ, nói sảng, hôn mê, cười nói không nghỉ v.v. Phần nhiều quy vào phạm vi bệnh của tâm, hoặc cho là có quan hệ tới tâm.

Ngũ tạng lục phủ dưối sự chỉ đạo “tâm thần” tiến hành hoạt động sinh lý nhịp nhàng thống nhất với nhau. Nếu tâm có bệnh, thần không tự chủ được thì hoạt động của tạng phủ sẽ mất cân đốì, làm rốỉ loạn sinh lý mà sinh ra bệnh. Chính vì tâm chủ thần mình làm chủ ngũ tạng lục phủ nên mỗi khi bị tà khí xâm nhập thì uy hiếp rất lỏn đến sinh mệnh. Thiên lình lan bí điển luận sách Tô” vấn có nói “tâm giữ chức vụ quân chủ, thần minh từ đó mà ra… Cho nên chủ sáng suốt thì dưỏi yên, chứ không sáng suốt thì 12 tạng đều nguy”.

  • Tăm chủ huyết mach, tinh hoa của tâm vinh nhuận ra măt

Huyêt do tâm làm chủ, mạch là đưòng ống của huyết lưu hành, tâm huyêt mạch phụ thuộc chặt chẽ vái nhau. Trong việc thúc đẩy sự vận hành tuần hoàn của huyết dịch, tuy tâm với mạch có sự hợp tác với nhau, nhưng làm nên tác dụng chủ động vẫn là tâm. Vì thế huyết tâm có công năng dinh dưỡng vẫn phải nhò vào sự hoạt động của tâm mạch. Màu sắc tươi tốt của ba thứ tâm, huyết, mạch phản ánh ra ở mặt, cho nên theo sự biến đổi màu sắc ở mặt, có thể biết được thịnh, suy, hư, thực của 3 thứ tâm, huyết, mạch, điều này giúp phần nhiều cho việc chẩn đoán lâm sàng:

Nếu người có công năng của tâm thần được kiện toàn, huyết mạch được thịnh vượng thì sắc mặt hồng, nhuận, sáng bóng có thần, trái lại thì nhợt nhạt, không tươi.

Nếu sự vận hành huyết bị trở ngại, huyết dịch bị ngừng trệ thì sắc mặt hay thấy xám đen. Nếu huyết ngừng động không lưu thông mất sự dinh dưõng thì chẳng những sắc mặt bị xám đen mà còn khô như củi nữa.

Tâm chủ thần minh, thần nhờ huyết khí mà tưdi sáng, huyết khí bất hoà thì thần minh cũng mất bình thường. Cho nên tâm khí hư thì thần sút kém mà buồn bã.

Tâm khí thịnh thì thần khoẻ mạnh mà cười luôn. Hoạt động của thần minh cũng ảnh hưởng đến huyết mạch, nếu lo buồn tư lự quá độ thì tổn thương tâm khí. Sự hoạt động của ngũ tạng, lục phủ, lại cần vào sự nuôi dưỡng của khí huyết. Vì thế hoạt động của thần minh, huyết mạch, tạng phủ có liên hệ chặt chẽ với nhau, từ đó ta thấy rỗ được tâm là chủ thể sự hoạt động sinh mệnh của cơ thể, là chủ toàn thể.

  • Tâm bào lac và đản trung

Tâm bào lạc là cái màng ở ngoài bọc lấy tim, lạc bám vào màng là cái đưòng của khí huyết thông hành, gọi chung là tâm bào lạc. Tâm bào lạc (là tô chức phần ngoài của tạng tâm) các tác dụng bảo vệ tâm. Tà khí xâm phạm vào cơ thể nói chung đều từ ngoài vào trong, từ biểu vào lý cho nên tà khí phạm tâm trước tiên là phạm tâm bào lạc. Tà phạm tâm bào có ảnh hưởng đến tâm năng của tâm, xuất hiện ra chứng trạng của tâm, cho nên nói bệnh tâm thường phần nhiều chỉ vào tà khí ỏ bào lạc của tâm mà không phải thật đúng là bệnh của tâm.

Đản trung ở chỗ giữa hai vú trên ngực là chỗ tập trung của tôn khí gọi là “Khí hải”. Tôn khí là động lực của huyết mạch vận hành và hô hấp, ngôn ngữ. Tâm chủ huyết mạch, phế chủ khí, coi về thanh âm cho nên bệnh của đản trung phần nhiều có liên quan tới tâm phế. Khí hải không đủ thì khí thiếu không đủ để nói. Khí hải dồi dào thì khí đầy ở lồng ngực, ảnh hưởng đến phế thì sinh bệnh khó thỏ, ảnh hưởng tói tâm thì thấy chứng mặt đỏ.

Can

  • Can chủ sơ tiết

Can chủ sơ tiết (coi sự phân bổ làm thông sướng điều đạt) dương khí của toàn thân, tương ứng với khí sinh phát của mùa xuân.

Khí của can thường cấp bức mà dẽ dàng: thịnh, thích vươn chải thoải mái mà ghét gò bó uất trệ. Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn ví can là “giử chức tướng quân”. Nếu can khí hữu dư thì làm cho ngưòi ta hay sợ sệt, hay kinh khiếp. Nếu can khí sơ tiết quá độ, can dương càng thịnh lên thì sẽ xuất hiện chứng đau đầu chóng mặt, choáng váng, mắt đỏ, chảy máu mũi. Nếu can khí bị uất ức không sơ tiết được thì thành bệnh can khí uất kết như những chứng tức ngực khó chịu, sườn đau.

  • Can tàng huyết

Can tàng huyết khác với tâm chủ huyết, can tàng huyết là chỉ vào việc điều tiết lượng huyết, tâm chủ huyết là chỉ vào sự vận hành của huyết dịch.

Sự sinh hoạt của các bộ phận trong cơ thể, cần phải nhờ sự dinh dưỡng của huyết dịch, lại thường tuỳ thuộc vào sự lao động, nghỉ ngơi, động tĩnh nên có sự thay đổi. Khi vận động mạch thì lượng lưu thông của huyết cần phải tăng thêm. Khi nằm ngủ thì lượng lưu thông của huyết lại giảm bớt, công năng điều tiết lượng huyết như vậy là nhờ vào can, thiên Ngũ tượng sinh thành sách Tố vấn nói: “Người ta ngủ thì huyết trở về can’1. Nếu can mất chức nàng tàng huyết thì sẽ xuất hiện chứng ngủ đêm không yên.

  • Can chủ cân

Tinh hoa của can phô ra ở móng tay, móng chân. Gân bám vào xương, sự thư co, giãn, duỗi của gân chủ về sự vận động của khớp xương. Sự dinh dưỡng cần thiết cho gân lại nhờ vào sự cung cấp của can. Vì thế bệnh ở gân phần nhiểu có quan hệ với can. Ví dụ: Người già động tác chậm chạp, vận động không nhanh nhẹn, là vì can không dinh dưdng được cho gân. Lại như vì sự co giãn của gân bị thất thưòng mà xuất hiện chứng co giật cấp tính cũng thường có quan hệ với bệnh can.

“Can chủ cân” “móng tay là phần thừa của cân”, màu sắc hình thái của móng tay có quan hệ rất lớn đến can và cân. Nói chung sức cân khoẻ mạnh thì móng phần nhiều là mềm. Can đỏm có bệnh thì móng tay thường khô mà không tươi sáng, hoặc móng tay dài ra cho nên người bệnh can nhiệt thì hay thấy chóng mặt, móng khô.

Tỳ

  • Tỳ chủ viêc vận hoá

Sự tiêu hoá hấp thụ thức ần và quá trình vận chuyển tãn dịch là do sự chung sức hợp tác với nhau của tỳ và vị mà nên việc. Tiêu hoá thức ăn là công năng của vị mà hấp thụ, vận chuyển các chất dinh dưõng lại cần nhò vào tỳ. Cho nên tỳ là tạng vận hành tân dịch cho vị phải thôiỉg qua đường kinh mạch để phân tán hoàn thành.

Vị là cái kho cấp dưỡng cho ngũ tạng lục phủ, đưòng kinh túc thái âm thông vào tỳ, tân dịch trong vị do tỳ hấp thụ, thông qua đường kinh mạch túc thái âm mà vận chuyển vào 3 âm kinh. Kinh túc dương minh với kinh túc thái âm có quan hệ biểu lý với nhau, cho nên tân dịch được tỳ hấp thụ cũng thông qua đường kinh túc dương minh mà phân bổ đến 3 kinh dương.

Tóm lại: các bộ phận trong cơ thể cần phải nhờ vào sự luân chuyển tân dịch của tỳ mới được nuôi dưõng. Như thế quá trình tỳ chủ việc vận hoá chất tinh vi trong đồ ăn uống cũng là cái lẽ mà thầy thuốc đòi sau gọi tỳ là “nguồn gốc của hậu thiên”.

Trong quá trình tiêu hoá đồ ăn uống, hấp thụ chất dinh dưỡng, phân bổ tân dịch, thì tỳ với vị mỗi thứ làm chủ một mặt, nhưng hai thứ này vần ảnh hưởng lẫn nhau. Vì thế tỳ có tính thấp (ướt) mà chủ việc đưa lên, vị có tính táo (khô) mà chủ việc đưa xuống. Tỳ thấp, vị táo, táo với thấp cùng làm việc chưng nấu thức ăn mới được tiêu hoá. Tính vị chủ việc đưa xuống, cho nên cơm nước mới được đưa xuông dưới. Tính tỳ chủ việc đưa lên, cho nên tân dịch nhò đó mới được hấp thu. Một thấp, một táo, một thăng, một giáng mói giúp cơ thể hoàn thành được toàn bộ quá trình vận hành thức ãn.

Tỳ tuy tính thấp, nhưng lại có thể vận hoá thuỷ thấp. Thuỷ thấp của người ta nhò sự vận hoá của tỳ mới không ứ đọng lại. Nếu tỳ hư không vận chuyển mạnh mẽ được thì sẽ làm cho thuỷ thấp ngưng đọng lại, trở ngại đến cơ nàng của tỳ như vậy gọi là “thấp hại tới tỳ thổ”. Đời sau theo lẽ này mà nói là “Tỳ chủ thấp mà lại ghét thấp”.

  • Tỳ chủ về tay chân

Tay chân nhờ dương khí mà hoạt động, dương khí được hoá sinh ra từ các chất tinh vi trong đồ ăn uống, bắt nguồn ở vị, chuyên vận ả tỳ, vì thế súc hoạt động mạnh yếu của chân tay có quan hệ chặt chẽ với tỳ.

Nếu tỳ không vận hành tân dịch thì tay chân không được ôn dưỡng của dương khí nên không có sức vận động, lâu ngày có thể thành chứng tay chân bại liệt, không cử động được.

  • Tỳ chủ cơ nhục, tươi tốt ra ở môi

Thức ăn uống vào vị, qua việc vận hoá hấp thụ của tỳ để dinh dưỡng cơ nhục. Công năng của tỳ mạnh khoẻ, cơ nhục được nuôi dưõng đầy đủ. Nếu tỳ vị bệnh đến nỗi gây trở ngại cho sự tiêu hoá hấp thụ, cơ nhục không được dinh dưdng đầy đủ thì người sẽ vàng, gầy dần dần. Thiên Quyết luận sách Tố vấn nói “tỳ chủ về cơ nhục của toàn thân”.

Tỳ và vị biểu lý với nhau, kinh mạch của vị vòng quanh miệng môi. Tỳ vừa chủ về cơ nhục lại vừa có môi quan hệ bên trong với miệng môi, theo sự biến đoi màu sắc, hình thái của miệng, môi, có thể phản ánh được bệnh của tỳ, vị, cơ nhục. Thường thấy ở những người tỳ hư dinh dưởng không tốt thì môi miệng vàng mà không tươi. Nếu khí của tỳ kiệt hết, cơ nhục mất tính năng bình thưồng thì sẽ xuất hiện các chứng lưỡi liệt, môi lật ra (chỗ nhân trung dầy lên).

Vì bệnh của tỳ thưòng phản ánh ra ở cơ nhục, môi, miệng, cho nên thầy thuốc xem xét màu sắc trạng thái của cơ nhục, môi miệng thì có thể chẩn đoán biết được tình hình sinh lý, bệnh lý của tỳ, cũng có thể tiên lượng suy đoán được bệnh của tỳ sẽ tốt hay xấu.

  • Tỳ thống nhiếp huyết

Tỳ có quan hệ chặt chẽ với huyết, huyết là tinh khí của đồ ăn uôhg hoá ra, bắt nguồn ỏ trung tiêu tỳ vị, cho nên thầy thuốc đòi sau nói “Tỳ là nguồn sinh ra huyết, tâm là tạng chủ về huyết”.

Tỳ chẳng những có thể sinh huyết mà còn có công dụng thông nhiếp huyết dịch. Tỳ khi khoẻ mạnh mỏi có thể duy trì được sự vận hành bình thưòng của huyết dịch mà không bị tràn ra ngoài. Nếu tỳ khí suy hư mất chức năng thống nhiếp huyết dịch, thì huyết dịch sẽ chảy tràn ra ngoài mạch mà xuất hiện các chứng khác nhau.

Phế

  • Phế chủ khỉ

Khí là vật chất trọng yếu. Cơ thể nhờ khí để duy trì sự sông. Có hai nguồn: Một là tinh khí trong đồ ăn uống, hai là khí tròi hút vào ngưòi. Khí trời từ phía ngoài do phế hút vào, khí của đồ ăn uống từ phía trong cơ thể, do tỳ mạch chuyển dần lên phế. Hai khí ấy kết hợp lại chứa vào khí hải ở lồng ngực gọi là “tôn khí”. Tôn khí là nguồn gốc của khí trong toàn thân đi ra họng thỏ để làm hô hấp, dồn vào tâm mạch, phân bô khắp toàn thân, cho nên hàm nghĩa của phê chủ khí, chẳng những phế coi việc hô hấp mà còn nói toàn bộ khí của cơ thể khắp trên dưới trong ngoài đều do phê làm chủ.

  • Phế trợ tăm chủ việc trị tiết

Trị tiết có nghĩa là quản lý rành mạch, không rối loạn, có thứ trị rõ ràng, ỏ đây là chỉ vào sự hoạt động sinh lý của quy luật, sở dĩ các tổ chức tạng phủ trong cơ thể hoạt động có quy luật nhất định, tuy do công dụng “tâm chủ thần minh” của tâm, nhưng vẫn cần được sự hỗ trợ của phế. Thiên Linh lan bí điển luận sách TcT vấn nói: “Phế giữ chức phó tướng, việc trị tiết từ đó mà ra”. Tác dụng phó tướng của phế biểu hiện về huyết mạch, chủ yếu là mỗi quan hệ tác dụng lẫn nhau giữa khí và huyết. Tâm chủ huyết, phê chủ khí. Cơ thể nhò sự vận hành tuần hoàn của khí huyết đê vận chuyển chất dinh dưỡng, duy trì hoạt động cơ năng và quan hệ nhịp nhàng giữa các tạng phủ. sự vận hành của huyết, tuy do tâm làm chủ nhưng phải nhờ vào tình hình thoải mái của phế khí mới có thể vận hành bình thường.

Khí của toàn thân tuy do phế làm chủ, nhưng phải nhờ sự vận chuyển của huyết mạch mái có thể thông đạt khắp toàn thân. Tâm với phế, huyết với khí nương tựa nhau, tạo thành cho nhau, gây tác dụng, quan hệ vối nhau rất chặt chẽ. Cho nên đời sau có sách nói: “Khí là thông soái của huyết, huyết là thứ phối hợp với khí, khí lưu hành thì huyết lưu hành, chỗ nào huyết đi đến thì khí cũng đi đến”.

  • Phế chủ túc giáng, thông điểu thuỷ đạo

Nước uống vào vị, tinh khí của nước qua sự chuyển vận của tỳ mà dồn lên phế, phế khí túc giáng thì thuỷ dịch theo đưòng thuỷ đạo của tam tiêu mà xuống thấu bàng quang. Nếu phế mất khả năng túc giáng thì sự thay cũ đổi mới của thuỷ dịch sẽ bị trỏ ngại, thuỷ dịch sẽ dồn đọng lại, tiểu tiện sẽ không thông thậm chí thành bệnh thuỷ thũng. Vì thế tiểu tiện có thông lợi hay không, thường có quan hệ tới công năng túc giáng của phế. Ngưòi ta có nói: “Phế là nguồn trên của nước” là lẽ này.

  • Phể chủ bì mao

Sự liên quan giũa phế với bì mao chủ yếu biểu hiện ở 2 mặt dưới đây:

Phê chủ khí coi việc hô hấp là cơ quan chính để trao đổi khí ở ngoài cơ thể, mà lỗ chân lông, da cũng có tác đụng tán khí. Cho nên lỗ chân lông gọi là khí môn.

Da lông nhò sự hun nóng của phê khí mới được tươi nhuận. Phế khí suy kiệt thì da lông khô khan, xơ xác.

Chính vì phế với da lông có mối liên hệ chặt chẽ cho nên da lông bị tà khí, tà khí có thể truyền vào phế, loại cảm lạnh mà ho là một ví dụ rất rõ rệt. Người bệnh phế hư thì da lông cũng thường hư yếu, chẳng những dễ ra mồ hôi mà còn bị cảm ngoại tà.

Thận (phụ thêm mệnh môn)

  • Thận chủ tàng tỉnh

Tinh là vật chất cơ bản của hoạt động đời sông, thứ tinh của nam, nữ giao hợp là nguồn gốc để sinh tồn nòi giông, thứ tinh do đồ ăn uống hoá sinh là chất dinh dưỡng cơ thể nhò vào đó để sinh tồn, Tinh nam nữ giao hợp gọi là tinh tiên thiên, tinh trong đồ ăn gọi là tinh hậu thiên. Hai thứ này đều tàng chứa ở thận: Tinh tiên thiên bẩm thụ từ cha mẹ, bắt đầu từ lúc mới là phôi thai cho đến lúc già chết mới hết, luôn luôn sinh trưởng phát dục. Nhưng sự hình thành của tinh tiên thiên, đặc biệt là sau khi sinh ra rồi, lại cần có sự dinh dưỡng của tinh, do chât tinh vi trong đồ ăn uống hoá ra. Vì thế tinh sinh dục (tinh tiên thiên là căn bản, tinh của đồ ân, uống (tinh hậu thiên) là điều kiện. Hai thứ đó có quan hệ bền chặt với nhau.

Tàng tinh là công năng quan trọng của thận. Từ sự sinh trưởng phát dục của cơ thể, cho đến sự sinh nòi đẻ giống về sau đều là sự tác dụng của thận tinh. Tác dụng của thận tinh đều gọi là thận khí, quá trình phát dục của cơ thể cũng tức là quá trình biến hoá thịnh suy của thận khí. Cho nên con gái khoảng 7 tuổi, con trai khoảng 8 tuổi thận khí vượng thịnh dần dần thì có sự biến đổi. Răng thay, tóc dài. Con gái khoảng 14 tuổi, con trai khoảng 16 tuổi ngũ tạng lục phủ đã được phát dục rất vượng thịnh, cơ năng sinh dục bắt đầu thành thục, nên có sự biến đổi là con gái có kinh nguyệt, con trai cồ tinh trùng, nếu lúc bấy giờ nam nữ giao hợp thì đã có thể có khả năng sinh đẻ. Con gái khoảng 35 tuổi, con trai khoảng 40 tuổi thận khí suy dần, tinh khí ngày càng giảm sút, tinh hoa của ngũ tạng lục phủ ngày càng suy tổn, cho nên nữ giới khoảng 49 tuổi, nam giói khoảng 64 tuổi thì thiên quý kiệt, kình nguyệt dứt, tinh ít, không thể đẻ con được nũa, đồng thời cơ thể cũng già yếu dần dần.

  • Thận chủ cốt tủy tinh hoa hiện ra ở tóc

Thận tàng tinh, tinh có thể sinh ra tuỷ, tuỷ chứa trong khoảng rỗng của xương, có tác dụng nuôi đưõng xương, cho nên thận có công năng sinh tuỷ, sinh xưđng. Nếu thận bị bệnh không sinh được tuỷ, xương mất sự ôn dưỡng có thể sinh ra chứng cốt tỷ: ngưòi lạnh, sưởi lửa cũng không ấm lên được, mặc áo dầy cũng không ấm hơn, tuy rét mà không run, khớp xương có cứng lại như tà nhiệt lưu ở thận, tuỷ dịch bị đốt nóng thì khô xương lâu ngày có thể thành chứng cốt suy yếu vô lực.

Thận có thể sinh tuỷ, não bộ chứa tuỷ, cho nên thận với não có quan hệ thông nhau. Mức độ thịnh hay suy của tinh khí chứa ỏ thận ảnh hưởng trực tiếp tới công năng của não. Ví dụ như người dâm dục nhiều, thận suy yếu, tinh hư, tuỷ ít sẽ thấy các chứng tinh thần mệt mỏi, mất ngủ, hay quên, không suy nghĩ được lâu.

Sự dinh dưỡng cho tóc là bắt nguồn từ huyết, cho nên tóc là phần thừa của huyết. Thận vốn tàng tinh, sinh tủy, huyết lại từ tinh tuỷ hoá ra cho nên tóc là phần tươi tốt phô ra ngoài của thận. Xét tóc khô hay mượt, có thể biết được thận thịnh hay suy. Đang tuổi thanh niên thận khí thịnh vượng thì tóc sáng mượt, đến lúc tuổi già vì thận suy dần cho nên tóc cứ bạc dần mà dễ rụng.

  • Thận chủ thuỷ

Nước uống vào vị được tỳ khí chưng bốc và thâ’u lên phế, được phê khí túc giáng, thuỷ dịch chảy xuống mà dồn về thận, đại khái quá trình của nước từ ngoài vào cơ thể rồi sau đi lên, đi xuống trong cò thể là như vậy. Thuỷ dịch do tỳ phế chưng bốc lên, có thanh, có trọc, thứ thanh thì đi lên, thứ trọc thì đi xuống. Nhưng trong thứ thanh lại có thứ trọc, trong thứ trọc lại có thứ thanh. Thứ thanh trong thứ thanh thì từ phê mà đi khắp da lông, thứ trọc trong thứ thanh thì theo ngòi rãnh tam tiêu mà đi xuống thận. Thuỷ dịch dồn về thận là thứ trọc; thứ trọc trong trong thứ trọc ấy theo đưòng bàng quang mà thải ra ngoài. Thứ thanh trong thứ trọc ấy thì chứa ở thận qua sự chưng nóng của thận dùng lại hoá thành khí mà đi lên đến phế, lại từ phế mà xuống thận. Tuần hoàn như vậy để duy trì sự thay cũ đổi mới của nưổc trong cơ thể. Nếu thận dương không đủ thì sự thay cũ đổi mới của nước bị trỏ ngại sẽ thành bệnh thuỷ thũng.

Mệnh môn

Mệnh môn có quan hệ chặt chẽ với thận, là bộ phận rất quan trọng trong cơ thể, thận là tạng thuộc thuỷ, chủ việc tàng, tinh, tinh là nguyên âm, mệnh môn là chỗ liên quan tái nguyên khí, gọi là nguyên dương. Nguyên đương là chân hoả tiên thiên, nguyên âm là chân thuỷ tiên thiên. Quan hệ giữa thận vói mệnh môn tức là quan hệ âm dương hỗ căn, thuỷ hoả tương tế.

Nguyên khí tiên thiên tàng ẩn ở mệnh môn, cho nên mệnh môn là nguồn sinh hoá của cơ thể. Mệnh môn thịnh hay suy quan hệ đến hoạt động sinh lý của ngũ tạng lục phủ, 12 kinh mạch, ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh dục của cơ thể. Nếu mệnh môn suy bại, nguyên khí khô kiệt, âm dương ly quyết thì sinh mệnh cũng kết thúc.

0/50 ratings
Bình luận đóng