Căn nguyên
Nitrat bạc được sử dụng dưới hình dạng giống như bút chì để cầm máu tại chỗ, dưới dạng dung dịch tan trong nước hoặc dạng keo (hồ) để làm thuốc sát khuẩn bôi, rửa hoặc nhỏ giọt ngoài da và niêm mạc (một biệt dược có tên là: collargol).
Đường xâm nhập: tiêu hoá, qua da, qua niêm mạc.
Độc tính: ngộ độc theo đường tiêu hoá thì liều gây tử vong là 0,6 g. Dung dịch nồng độ cao tác động tại chỗ thì gây hoại tử da và niêm mạc.
Triệu chứng
- Nhiễm độc cấp tính: mới đầu môi có mầu trắng bệch rồi sau đó trở thành mầu đen, hoại tử miệng-họng, đau bụng, nôn, ỉa chảy màu đen nhạt, ỉa phân đen, trong máu hình thành methemoglobin, truy tim mạch, thiếu-vô niệu, hôn mê, co giật.
- Ngộ độc mạn tính: chứng nhiễm độc bạc có thể chỉ tại chỗ sau khi bôi thuốc có nitrat bạc nhiều lần ở da, hoặc niêm mạc; nhưng cũng có thể toàn thân do tích luỹ những dẫn xuất không tan của kim loại bạc trong mô võng-nội mô (hoặc lưới-nội mô); trong trường hợp này thì da và các niêm mạc có màu lục xám.
Điều trị
- Rửa dạ dày với nước muối. Thuốc tẩy ruột thuộc loại muối. Muối ăn (NaCl) làm cho nitrat bạc kết tủa trong ống tiêu hoá dưới dạng chlorua bạc không độc. Cho thuốc giảm đau tuỳ theo nhu cầu. Cho diazepam trong trường hợp co giật.
- Đối với điều trị methemoglobin-huyết, xem: anilin.