LÔBÊLI
Tên khoa học: Lobelia inflata L., họ Lộ biên – Lobeliaceae
Cây lôbêli còn gọi là khử đờm thảo.
Đặc điểm thực vật
Cây thuộc thảo sáng hàng năm, thân cây mọc thẳng, cao khoảng 60 cm, rỗng giữa, ngoài có lông. Lá nguyên, hình trứng dài, đầu nhọn, mép có khía răng cưa nhỏ không đều, dài 3 – 8 cm, không có cuống hay có cuống rất ngắn. Hai mặt lá đều có lông tơ ngắn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá và ngọn cây, có cuống ngắn, tràng hoa xanh nhạt. Quả nang, có nhiều hạt rất nhỏ màu nâu.
Phân bố và trồng hái
Cây này có nguồn gốc ở vùng phía Đông Bắc Mỹ, mọc ở những rừng thưa và trên những đồng cỏ. Lôbêli được trồng nhiều ở Mỹ và một số nước châu Âu (Hà Lan, Ba Lan, Nga…). Cây được trồng bằng hạt, gieo hạt vào những luống riêng và sau đó mới đánh cây con đi trồng ở nơi cố định.
Hàm lượng lobelin – alcaloid chính được chiết từ cây lôbêli, cao nhất vào thời kỳ cây ra hoa. Hàm lượng alcaloid này sẽ giảm đi nhiều và nhanh về mùa thu khi lá bị héo. Khi thu hái người ta chỉ cắt lấy phần trên mặt đất của cây. Hàm lượng alcaloid cao nhất ở phần ngọn có mang hoa, ở thân và lá có ít nhưng nó chiếm khối lượng lớn nên vẫn dùng.
Bộ phận dùng và chế biến
Bộ phận dùng là phần trên mặt đất của cây (Herba Lobeliae). Sau khi thu hái đem phơi trong bóng râm cho khô, nếu sấy ở nhiệt độ cao sẽ làm giảm lượng alcaloid.
Dược liệu được cắt thành đoạn nhỏ.
Thành phần hóa học
Trong cây lôbêli có chừng 0,2 – 0,6% alcaloid, trong đó lobelia là alcaloid chính và cũng là chất có tác dụng điều trị quan trọng nhất. Tới nay người ta đã biết đến trên 20 alcaloid chiết từ lôbêli và được chia làm 4 nhóm:
– Nhóm lobelidion: lobelanin, norlobelamin…
– Nhóm lobelionol: lobelin, lobilin (dạng trans), isolobinin (dạng cis)
– Nhóm lobelidiol: lobelanidin, lobebanidin…
Tác dụng và công dụng
Lobelin có tác dụng kích thích trung tâm hô hấp ở hành tủy, do đó được dùng để chữa những trường hợp ngất do hô hấp như gây mê, điện giật, chết đuối, ngộ độc oxyd carbon, bị ngạt thở do hen, viêm phế quản, viêm phổi, ho gà và ngạt thở trẻ sơ sinh.
Vì lobelin đưa vào cơ thể bằng cách uống sẽ bị phân hủy ngay nên người ta thường dùng dạng tiêm.
Liều dùng: Lobelin hydroclorid, ống 1 ml có 0,01 g. Tiêm dưới da 1 ống, sau 10 – 15 phút có thể tiêm thêm. Đối với trẻ sơ sinh dưới 4 tháng tuổi dùng 0,003 g, từ 4 – 12 tháng: 0,005 g, trên 12 tháng 0,01 g.
Không được dùng trong bệnh tim, gây mê bằng chloroform và khi dùng procain. Ngoài ra, lobelin còn được dùng để cai thuốc lá vì sau khi uống lobelin mà hút thuốc lá sẽ tạo thành tác dụng cộng hợp lobelin với nicotin làm người nghiện mất cảm giác thèm và thấy sợ hút thuốc.
Dịch chiết dược liệu dùng làm thuốc chữa hen, thuốc long đờm.
Chú thích: Ngoài Lobelia inflata L. người ta còn dùng một số loài Lobelia khác cũng có alcaloid như Lobelia urens L., Lobelia cardinalis L., Lobelia syphilitica L.
Ở nước ta có cây Lobelia pyramidalis Wall., còn gọi là cây bã thuốc, mọc hoang ở vùng núi Sapa, Mù Căng Chải (Lào Cai). Nhân dân địa phương thường dùng lá giã nát hay bấm lá tươi lấy nhựa bôi lên những mụn nhọt, những chỗ sưng tấy, áp se.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngô Văn Thu (2011), “Bài giảng dược liệu”, tập I. Trường đại học Dược Hà Nội
Phạm Thanh Kỳ và cs. (1998), “Bài giảng dược liệu”, tập II. Trường đại học Dược Hà Nội.
Đỗ Tất Lợi (2004), “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học.
Viện dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản khoa hoc kỹ thuật.
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật.