Các khoản cần thiết trong hộp thuốc chống sốc (tổng cộng : 07 khoản)
1. Adrenaline 1mg – 1mL 2 ống
2. Nước cất 10 mL 2 ống
3. Bơm tiêm vô khuẩn (dùng một lần):
10mL 2 cái
1mL 2 cái
4. Hydrocortisone hemusuccinate 100mg hoặc Methyprednisolon
(Solumedrol 40mg hoặc Depersolon 30mg 02 ống).
5. Phương tiện khử trùng(bông, băng, gạc, cồn)
6. Dây garo.
7. Phác đồ cấp cứu sốc phản vệ.
Bản chất Sốc phản vệ là hiện tượng dị ứng rất nặng, là xung đột giữa kháng nguyên và kháng thể với sự giải phóng histamin từ dưỡng bào và bạch cầu ưa base, được chia thành 4 giai đoạn: dấu hiệu da niêm mạc, dấu hiệu tim mạch vừa phải, sốc co thắt phế quản, ngưng tim ngưng thở. Trong truyền dịch hay tiêm thuốc, Sốc phản vệ thường chuyển rất nhanh vào giai đoạn 3 nếu không cấp cứu kịp thời, sẽ chuyển ngay sang giai đoạn 4, chuyển sang Sốc phản vệ thì hai (SPV chậm ở thì 2) gây tử vong. Yêu cầu cấp cứu Sốc phản vệ là phải đối kháng chống lại hiệu quả và kịp thời các triệu chứng có hại do histamin gây ra.
Về cách tiếp cận, các nước đều thống nhất có 5 vấn đề: đường thông khí A (A = airway), sự hô hấp (B = breathing), lưu thông máu (C = circulation), tình trạng mất ý thức (D = disability level of consciousness), biểu hiện ngoài da (E = exposure of skin).
Về danh mục thuốc: các nước đều thống nhất dùng epinephrin như mộtchỉ định bắt buộc đầu tiên, còn các thuốc khác như: kháng histamin, corticoid (prednisolon, methylprednisolon) thì có nước không đưa, có nước đưa vào dạnh mục nhưng không coi là chỉ định bắt buộc.
Một số loại thuốc thường dùng trong sốc phản vệ
Epinephrin
Các nước, cũng như mới đây, Hội đồng hồi sức Vương quốc Anh (HĐHSVQA) (2008), coi epinephrin là một chỉ định bắt buộc, đầu tiên vì epinephrin có hiệu năng giao cảm đối kháng với từng triệu chứng do histamin gây ra: tác dụng lên alpha-1 làm giảm phù thanh quản, co mạch (làm tăng huyết áp, chống trụy mạch); tác dụng lên beta-1 làm co sợi cơ dương, tác dụng lên beta-2 làm giãn phế quản (chống lại sự co thắt phế quản), giảm phóng thích histamin và các hóa chất trung gian khác; ức chế dưỡng bào và tế bào ưa base (chống lại sự sinh bạch cầu ưa base).
Trong việc dùng epinephrin cần có một số lưu ý sau:
– Tiêm bắp ngay lập tức ephinephrin làm tăng cơ hội sống cho người bệnh dù chỉ một liều nhỏ (0,3mg). Việc không tiêm bắp ngay lập tức epinephrin làm tăng nguy cơ Sốc phản vệ hai thì (tức là sẽ xảy ra Sốc phản vệ chậm, ở thì 2), dẫn tới tử vong. Có thể dùng tiêm bắp ephinephrin ở đùi hay tiêm mạch, theo cách chuẩn độ từng mỗi 0,1mg cho đến khi mất hết các triệu chứng lâm sàng do histamin gây ra. Tiêm bắp ít có nguy cơ nguy hiểm như tiêm tĩnh mạch. Chỉ tiêm tĩnh mạch khi thật cần thiết bởi các kỹ thuật viên thành thạo.
– Các nước hướng dẫn liều tiêm bắp chưa thống nhất. Với người trên 12 tuổi: liều của một số nước hướng dẫn là 0,3 – 0,5mg, liều theo HĐHSVQA là 0,5mg.
– Một số người cho là epinephrin có lúc gây ra rối loạn nhịp tim, thiếu máu cơ tim. Tuy nhiên, cần biết bản thân Sốc phản vệ đã có hiện tượng này trước khi tiêm epinephrin. Run, hồi hộp hay tái xanh là biểu hiện hiệu quả dược lý của epinephrin (chứ không phải là biểu hiện độc).
– Nhằm giúp cho việc tính toán dễ dàng, nên biểu thị nồng độ epinephrin là 1mg/ml (hơn là cách tính phần trăm, phần ngàn).
– Bơm tiêm epinephrin tự động được bán rộng rãi nhằm giúp người bệnh trong cộng đồng dùng sớm, an toàn epinephrin nhưng hầu như chưa được dùng nhiều. Hạn chế của loại này là chỉ có một liều nạp sẵn.
Các corticoid
Glucocorticoid hay các corticoid tổng hợp predisolon, methylpredniosolon có nước không đưa vào, có nước đưa vào danh mục nhưng không coi là chỉ định bắt buộc.
Bình thường, bản thân con người vốn có hormone nội sinh glucocorticoid (cortisol) có tính miễn dịch, giúp cơ thể thích ứng khi gặp sự thay đổi môi trường, dị nguyên (kể cả dịch truyền, thuốc tiêm). Nếu cơ thể đủ hormone glucocorticoid để tạo ra sự thích ứng ấy (nghĩa là không xảy ra hiện tượng dị ứng) thì việc dùng trước corticoid nhằm dự phòng Sốc phản vệ là không cần thiết.
Truyền dịch cho trẻ bị sốc phản vệ do thức ăn.
Các corticoid có thời gian tác dụng chậm, từ 2 – 4 giờ, với cơ chế điều biến các phản ứng đến chậm và tránh hiện tượng bật trở lại nên không thể dùng chúng để cấp cứu kịp thời do Sốc phản vệ. Chẳng hạn, Sốc phản vệ gây tụt huyết áp, trụy tim mạch, các corticoid tuy có tính năng chuyển hóa glucid, làm tăng đường huyết, tăng huyết áp nhưng diễn ra chậm, không thể chống lại ngay được sự tụt huyết áp, trụy mạch; Sốc phản vệ dễ chuyển sang giai đoạn nặng, tăng nguy cơ chuyển sang Sốc phản vệ hai thì (Sốc phản vệ xảy ra chậm ở thì 2), gây tử vong.
Như vậy, corticoid không thể dùng dự phòng, và khi Sốc phản vệ xảy ra, corticoid không phải là lựa chọn đầu tiên. Một số nước đưa corticoid vào danh mục thuốc cấp cứu Sốc phản vệ là để chống lại các phản ứng dị ứng đến muộn.
Kháng histamin
Kháng histamin không ngăn cản sự tạo thành histamin từ nguồn, nên không phải thuốc dự phòng mà chỉ chống lại, hủy bỏ các triệu chứng bất lợi do histamin gây ra (tức là thuốc giải quyết hậu quả). Một số nước (như Hướng dẫn của HĐHSVQA-2008) dùng epinephrin giải quyết các vấn đề do histaimin gây ra ngay ở giai đoạn 2, mà không dùng kháng histamin. Một số nước đưa vào danh mục thuốc dùng trong Sốc phản vệ nhưng không phải là thuốc cấp cứu Sốc phản vệ, không phải là thuốc chọn lựa đầu tiên mà chỉ coi là một thuốc chống các biểu hiện dị ứng nhẹ, thuốc thường được đưa vào danh mục là diphenhydramin (tiêm bắp hay tĩnh mạch).
Dịch truyền
Khi có trụy mạch, dùng dung dịch natrichlorua 0,9%. Nếu sau dùng epinephrin và truyền dịch đủ liều mà vẫn không nâng được huyết áp thì dùng huyết tương, albumin hay truyền máu (nếu mất máu), chọn lựa tùy theo trường hợp cụ thể.
Sốc phản vệ xảy ra rất nhanh, tính bằng phút bằng giây. Phải có sẵn hộp chống Sốc phản vệ, kiểm tra thường xuyên, không để thuốc hư hỏng, đặc biệt là loại có chỉ định bắt buộc, đầu tiên như epinephrin. Cần biết rõ triệu chứng Sốc phản vệ để phát hiện sớm, xử lý kịp thời. Riêng điều dưỡng viên, người trực tiếp xử lý thì phải thuần thục. Không chuẩn bị sẵn sàng, xử lý chậm trễ, thao tác lóng ngóng… sẽ dẫn đến tử vong. Để chủ động tránh Sốc phản vệ, phải khai thác tiền sử dị ứng, tránh dùng thuốc, ăn hay tiếp xúc với các loại dị nguyên từng gây dị ứng cho người bệnh, đặc biệt không tự ý dùng và dùng nhiều thuốc (gây dị ứng chéo), theo dõi chặt chẽ việc dùng thuốc.