Có lẽ chưa bao giờ số lượng các Đông dược thành phẩm được sản xuất trong nước, kể cả thuốc và thực phẩm chức năng lại phong phú như bây giờ. Theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến năm 2011  đã có tới 1.086 chế phẩm thuốc Đông y đang lưu hành trên thị trường. Nhưng cũng chưa bao giờ chất lượng của những sản phẩm này lại trở thành vấn đề hết sức bức thiết như hiện nay. Bởi lẽ, ở tất cả các khâu từ trồng trọt, thu hái, bào chế, bảo quản….  để đảm bảo dược liệu có đủ các tiêu chuẩn đều có những điều hết sức bất cập, trong đó có vấn đề công nghệ chiết xuất dược liệu.
Có thể nói, công nghệ chiết xuất dược liệu có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc quyết định đến chất lượng, độ an toàn và hiệu quả của Đông dược thành phẩm. Đây là sự khác nhau giữa tân dược mà nguyên liệu được biết rõ về thành phần hóa học với Đông dược có nguồn gốc cây cỏ, thành phần phức tạp và trong nhiều trường hợp còn chưa xác định được thành phần có tác dụng. Mỗi Đông dược thành phẩm có đạt được những yêu cầu của tiêu chuẩn hóa hay không cũng liên quan tới việc định lượng hoạt chất hay chất đặc trưng của mỗi dược liệu. Điều này được thực hiện bằng hai cách: thiết lập những phổ hay sắc ký đồ đối chiếu của thành phẩm tiêu chuẩn để so sánh và tiến hành kiểm tra, kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, công nghiệp chiết xuất của chúng ta chưa phát triển, hầu như chưa có các nhà máy chiết xuất lớn theo đúng nghĩa của nó. Các cơ sở thường tự xây dựng các phân xưởng chiết xuất nhỏ phục vụ cho nhu cầu của riêng mình. Phương pháp chiết xuất chủ yếu vẫn là nấu cao, cô cao trực tiếp ở áp suất thường trong không khí và điều kiện nhiệt độ không chuẩn xác. Các cơ sở chiết dược liệu ở vùng trồng (nếu có) cũng chủ yếu là cơ sở nhỏ chế biến một loại cao nhất định với các trang thiết bị khá thô sơ. Một vài doanh nghiệp nắm bắt được sự phát triển của thị trường đã bắt đầu đầu tư các nhà máy chiết xuất ở các vùng nguyên liệu. Tuy nhiên, phần lớn các trang thiết bị của các nhà máy này vẫn chỉ dùng để “nấu cao” ở quy mô lớn có sự hỗ trợ của máy móc. Một số cơ sở nhỏ có thiết bị hiện đại hơn (chiết có gia nhiệt với các dung môi cồn, cồn – nước, cô thu hồi dung môi dưới áp suất giảm….) nhưng lại thiếu những quy trình chiết, các sản phẩm chiết có chất lượng cao đặc trưng cho cơ sở, có sản lượng đủ lớn cạnh tranh với nước ngoài. Việc đầu tư các thiết bị chiết xuất, các dây chuyền chiết xuất hiện đại cùng với các quy trình chiết xuất dược liệu tiên tiến, hiệu quả chỉ mới là ý tưởng hay mơ ước.
 Xưởng sản xuất dược liệu.
Những người làm việc trong các doanh nghiệp dược hẳn còn nhớ câu chuyện thu tiền tỷ từ việc chiết xuất maniferin, một hợp chất có tác dụng chữa bệnh zona vào những năm 80 của thế kỷ trước và đến nay chúng ta đã có thể sản xuất nguyên liệu mangiferin đạt độ tinh khiết > 98%, xuất khẩu sang Nga cả nguyên liệu và thuốc thành phẩm với trị giá khoảng 1 triệu USD/năm. Theo nhiều nhà nghiên cứu dược liệu, trong kho tàng thực vật nước ta còn hàng trăm loài dược liệu có chứa hàm lượng lớn những hoạt chất quý giá dùng để sản xuất nguyên liệu bào chế thuốc thành phẩm như taxol trong cây thông đỏ; rurin và troxerutin trong hoa hòe dùng để sản xuất thuốc làm bền thành mạch, dự phòng và trị liệu các bệnh lý xuất huyết; curcumin và quercetin trong nghệ dùng để sản xuất thuốc phòng chống khối u, hỗ trợ điều trị ung thư, viêm loét dạ dày tá tràng…; shikimic acid trong tinh chất hoa hồi dùng để sản xuất oseltamivir phosphate có tác dụng phòng chống virut cúm A/H5N1 và H1N1, mối đe dọa lớn với thế giới và Việt Nam (đến nay, Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất oseltamivir phosphate từ acid shikimic, phân lập từ quả hồi trên quy mô phòng thí nghiệm), artemisinin trong thanh hao hoa vàng phục vụ sản xuất thuốc phòng chống sốt rét, đáp ứng nhu cầu thuốc trong nước và tham gia xuất khẩu; vinblastin, vincristin, vindolin và catharanthin từ cây dừa cạn làm nguyên liệu sản xuất thuốc điều trị bệnh ung thư; sterol trong đậu tương dùng làm nguyên liệu sản xuất thuốc, sản phẩm bổ sung dinh dưỡng và bán tổng hợp các chất như testosteron propionat, ethinylestetradiol, DHEA; carotenoid để làm thuốc chống lão hóa, chống ung thư từ quả gấc và hoa cúc vạn thọ; lutein, zeaxanthin từ hoa cúc vạn thọ để làm nguyên liệu bào chế thuốc vicuva; rotundin trong củ bình vôi dùng làm thuốc an thần, trấn tĩnh; glycosid từ quả mướp đắng để sản xuất thức ăn chức năng làm giảm hàm lượng đường trong máu..
Điều đó cho thấy, với một tiềm năng hết sức to lớn, nếu có một đường hướng đúng đắn và mạnh dạn, công nghệ đầu tư hiện đại và tiên tiến, đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao và chuyên nghiệp thì chúng ta có thể tạo ra một sức bật mới, một sự chuyển biến về chất cho công cuộc phát triển công nghệ chiết xuất dược liệu, có thể làm được cái gọi là “may túi ba gang” cho ngành công nghiệp dược. Điều đáng mừng là, Đề án “Phát triển công nghiệp dược và xây dựng mô hình hệ thống cung

ứng thuốc của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 và tầm nhìn đến năm 2020” của Chính phủ đã xác định: xây dựng cơ sở chiết xuất hoạt chất tinh khiết từ dược liệu để đảm bảo 20% nhu cầu hoạt chất cho sản xuất thuốc vào năm 2015 và 30% vào năm 2020. Cũng trong năm 2007, Thủ tướng đã có quyết định số 43 và 61 về phát triển công nghiệp dược, trong đó có đề cập đến các vấn đề tăng cường đầu tư phát triển các cơ sở chiết xuất tinh khiết các hoạt chất từ dược liệu với mục tiêu là: nghiên cứu tạo ra những công nghệ có chất lượng cao ở trong nước, kết hợp với nhập khẩu, làm chủ và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài để sản xuất nguyên liệu hoá dược phục vụ ngành công nghiệp dược và công nghiệp bào chế thuốc chữa bệnh, tiến tới chủ động sản xuất thuốc ở trong nước; nghiên cứu khai thác và sử dụng có hiệu quả các hoạt chất thiên nhiên chiết tách, tổng hợp hoặc bán tổng hợp được từ các nguồn dược liệu và tài nguyên thiên nhiên quý giá và thế mạnh của nước ta, phục vụ tốt công nghiệp bào chế một số loại thuốc đặc thù của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu chữa bệnh trong nước và xuất khẩu.   

ThS. Hoàng Khánh Toàn-Theo SKDS

0/50 ratings
Bình luận đóng