Dâu Tằm

Tên khác:             Dâu ta, mạy mọn (Tày), co mọn

(Thái), dâu cang (H’Mông), nằn phong (Dao).

Tên khoa học: Morus acidosa Griff.

Họ Dâu tằm (Moraceae).

MÔ TẢ

Cây nhỏ thường chỉ cao 1 – 2m ở cây trồng, cây mọc hoang dại có thể cao đến 6 – 8m. Cành non mềm, có lông, màu xám trắng, cành già nhẵn, màu nâu.

Lá mọc so le, mềm, mép khía răng nhỏ đều, đôi khi chia 3 – 5 thùy, hai mặt nhẵn màu lục xám, mặt dưới nhạt hơn, cuống mảnh có lông nhỏ.

Hoa đơn tính, cụm hoa đực hình đuôi sóc, hoa có 4 lá đài, không có cánh hoa, 4 nhị dài; hoa cái có cụm hình bông ngắn hoặc hình cầu, 4 lá đài, không cánh hoa, bầu có 1 noãn.

Quả phức gồm nhiều quả bế, khi chín màu đỏ hay hồng, sau màu đen.

Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Lá dâu non
Lá dâu non

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, dâu tằm phân bố ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ thuộc vùng ôn đới ấm hoặc cận

nhiệt đới và ở các nước Đông Nam Á với khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm.

ở Việt Nam, dâu tằm là cây trồng trên diện tích lớn ở bãi sông, ruộng bằng, đất cao nguyên.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

  • Rễ dâu: Thu hoạch vào mùa hạ – thu, rửa sạch, cạo bỏ lớp vỏ ngoài, tước lấy lớp vỏ trắng bên trong, cắt thành đoạn dài 20 – 50cm, phơi hoặc sấy khô.

Khi dùng thái nhỏ, tẩm mật, sao cho vàng thơm.

  • Lá dâu: Thu hái vào đầu mùa hạ, hái lá non và lá bánh tẻ ở những cây dâu chưa có quả, loại bỏ lá vàng úa. Phơi trong râm mát cho khô.

Khi dùng để sống hoặc tẩm rượu sao.

  • Cành dâu: Thu hái quanh năm, dùng cành có đường kính 0,5 – l,5cm, tuốt bỏ lá, cạo vỏ ngoài, thái phiến dày khoảng lem, phơi hoặc sấy khô.

Khi dùng, sao vàng hoặc tẩm rượu sao.

  • Quả dâu: Thu hái khi quả đã chín có màu đỏ hoặc đen (loại đen tốt hơn), để nguyên hoặc đồ chín, rồi phơi hoặc sấy khô.

    Tang thầm - quả dâu là thực phẩm cho người thiếu máu
    Tang thầm – quả dâu là thực phẩm cho người thiếu máu

  • Tầm gửi cây dâu (cây tầm gửi mọc ký sinh trên cây dâu): Thu hái quanh năm, chặt ngắn, phơi hoặc sấy khô.
  • TỔ bọ ngựa (bao trứng) đính trên cây dâu tằm với tên gọi dân dã là ổ cào cào đeo dâu, được thu hoạch vào tháng 10 -1. Đem về, đồ khoảng nửa giờ cho chín trứng bên trong, rồi nướng vàng hoặc sao giòn, tán bột, rây mịn. Có thể sao với rượu, giấm hoặc đốt tồn tính.
  • Sâu dâu (nhậy dâu) là ấu trùng của một loài xén tóc, sống và lớn dần trong thân cây dâu, thường dài 3 – 5cm, toàn thân mềm nục, có màu trắng như sữa. Khi cần dùng, tìm những thân cây dâu có phân đùn ra ngoài, cắt lấy và chẻ dọc để lấy sâu. Chỉ dùng những con to. Dùng ngay hoặc phơi, sấy khô.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Vỏ rễ dâu chứa mulberin, cyclomulberin, mulberanol, kuwanon A, B, D, E, F, G, H… umbeliferon, P-tocopherol, scopoletin, morin, sitosterol.

Cành dâu chứa các flavonoid: dihydromorin, mulberin, mulberochromen.

Lá dâu chứa tinh dầu (tỷ lệ rất thấp), protein, flavonoid, carbohydrat, vitamin và một số thành phần khác. Các acid amin như valin, leucin, tyrosin, alanin, acid glutamic. Các flavonoid là rutin, quercetin, quercitrin, moracetin. Các vitamin chủ yếu là vitamin B, vitamin c, caroten, vitamin D. Các acid hữu cơ như acid citric, acid oxalic, acid tartric,…

Quả dâu chứa acid hữu cơ, lipid, tinh dầu, cyanidin.

Tinh dầu chứa cineol, geraniol, linalol, camphor, limonen.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Vỏ trong rễ dâu có tác dụng gây hạ huyết áp, gây trấn tĩnh. Cao chiết với nước và methanol từ vỏ rễ dâu làm giảm mức đường huyết.

Lá dâu có tác dụng hạ huyết áp yếu. Chế phẩm an thần Passerynum gồm lá dâu, lạc tiên, vông nem, lá sen, thảo quyết minh, hạt tơ hồng, hạt keo giậu, củ sâm đại hành lại gây ngủ dễ dàng và ngon giấc.

Cao nước của thân cây dâu có tác dụng ức chế các vi khuẩn gram dương và các men.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

  • Rễ dâu, tên thuốc trong y học cổ truyền là tang bạch bì, có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính mát, được dùng chữa ho, hen, thổ huyết, phù thũng.

Liều dùng hàng ngày: 6 – 12g, có thể đến 20g, dưới dạng nước sắc.

  • Cành dâu (tang chi) có vị đắng, nhạt, tính bình, chữa tê thấp, đau xương, sưng chân, mỏi gối, phù thũng.

Liều dùng hàng ngày: 12 – 20g dưới dạng nước sắc hoặc cao pha rượu.

  • Lá dâu (tang diệp) có vị ngọt, đắng, tính mát, chữa cảm, sốt, ho, viêm họng, đau mắt đỏ, chảy nước mắt, cao huyết áp.

Liều dùng hàng ngày: 6 – 12g dưới dạng nước sắc.

  • Quả dâu (tang thầm) có vị ngọt, chua, tính ôn, chữa thiếu máu, ù tai, mắt mờ, kém ngủ, đau khớp, tràng nhạc, táo bón.

Mỗi ngày dùng 12 – 20g quả tươi theo các dạng sau:

  • Rửa sạch quả dâu, để ráo nước, cho vào lọ rộng miệng cùng với đường kính với tỷ lệ 1/1 (cứ một lớp dâu lại một lớp đường, rồi đậy kín). Sau 5 – 7 ngày, sẽ được một thứ dịch màu đỏ, thơm gọi là sirô dâu. Ngày uống hai lần, mỗi lần 2 – 3 thìa cà phê dịch này pha với nước nguội. Có thể pha dịch dâu với rượu 30° để thành rượu dâu. (Thuốc nhuận tràng, giải khát).
  • Quả dâu tươi (lkg) nấu với nhiều lần nước, lọc sau mỗi lần nấu, rồi trộn các nước lọc lại, cô thành cao lỏng, thêm mật ong. Ngày uống hai lần, mỗi lần 10g. Hoặc ép lấy dịch dâu rồi cô thành cao mềm, ngày uống 6 – 9g. (Thuốc chữa gan, thận yếu, đau lưng, táo bón, chân tay tê bại ở người cao tuổi).

Để làm cho tóc đen, hàng ngày ăn 50 – 100g quả dâu chín hoặc uống dịch dâu, kết hợp lấy nước ép quả dâu pha loãng dùng chải tóc đều đặn.

  • Tầm gửi cây dâu (tang ký sinh) có vị đắng, tính bình, chữa đau lưng, đau mình, chân tay tê bại, đại tiện ra máu, tắc sữa, ho hen, động thai.

Liều dùng hàng ngày: 15 – 30g. Dược liệu được dùng riêng theo cách sau: Để tươi, rửa sạch, giã nhuyễn, thêm nước, gạn lấy một bát uống chữa đau xóc hai bên hông. Nếu phơi khô, tán bột, mỗi ngày uống 4g với nước ấm chữa đại tiện ra máu, lưng gối nặng nể, yếu sức (Nam dược thần hiệu).

  • Tổ bọ ngựa (tang phiêu tiêu) có vị ngọt, mặn, hơi tanh, tính bình, không độc, chữa mồ hôi trộm, đái nhiều lần nhất là về đêm, di tinh, liệt dương, xuất tinh sớm, đau lưng, khí hư, trẻ em đái dầm, người cao tuổi đái són, phụ nữ kinh bế. Liều dùng hàng ngày: 6 – 12g.

Dùng riêng, tang phiêu tiêu (100g), tẩm rượu, sao khô, tán nhỏ, mỗi lần uông 8g với nước gừng để chữa bạch đới, khí hư.

  • Sâu dâu có vị ngọt, mặn, béo, mùi thơm (khi sao), tính ấm, không độc, có tác dụng tiêu tích, tiêu độc, giảm ho, cầm máu. Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng sâu dâu (nam 7 con, nữ 9 con) nấu với gạo nếp thành cháo, ăn làm 3 lần trong ngày chữa nốt đậu nung mủ không đầy.

Theo kinh nghiệm dân gian, sâu dâu (3 – 5 con) cho vào một chén nhỏ cùng với ít mật ong, hấp chín rồi nghiền nát cho trẻ uống làm nhiều lần trong ngày, chữa cam còm, đau mắt, chảy nhiều nước mắt, ho sốt, kinh phong.

Sâu dâu nướng qua ngâm vào rượu trắng trong nhiều ngày, uống chữa suy nhược, gầy yếu, hay mệt mỏi ở người cao tuổi. Nếu nướng sâu vàng giòn, tán bột, trộn với mật ong, uống lại chữa ho. Phụ nữ bị băng huyết, lấy sâu dâu nướng cho gần cháy đen, tán bột, uống với rượu hâm nóng mỗi lần 4 – 6g. Ngày 2 – 3 lần.

BÀI THUỐC

Chữa ho lâu ngày, viêm họng: vỏ rễ dâu (10g), thiên môn (10g), bách bộ (10g, bỏ lõi, sao vàng), sâm Bố Chính (10g), cam thảo dây (8g, để tươi), xạ can (5g), vỏ quýt (5g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày. Có thể nấu thành cao lỏng, mỗi lần uống 1 thìa cà phê.

Chữa ho gà: vỏ rễ dâu, quả hồng bì, củ sả, bách bộ, ô mai, cát cánh, hạnh nhân, kinh giới, cam thảo, bạc hà (mỗi thứ 50g). sắc với nhiều lần nước. Cô lấy nước đặc, thêm đường nấu thành sirô. Mỗi lần uống 1 – 5 thìa cà phê tùy theo tuổi lớn, nhỏ và bệnh nặng hay nhẹ.

Chữa đau dây thần kinh tọa: Cành dâu, ngưu tất, thổ phục linh, thiên niên kiện (mỗi thứ 12g), cà gai leo, lá lốt, đỗ đen sao (mỗi thứ 10g). sắc uống ngày một thang. Dùng thời gian dài.

Chữa ho trẻ em: Lá dâu non (12g), lá hẹ (10g). Hai thứ giã nhỏ, trộn với 3 thìa cà phê mật ong, đem hấp cơm cho chín. Để nguội, chia làm 2 – 3 lần uống trong ngày.

Chữa sốt nóng, tức ngực, ho nhiều có đờm: Lá dâu (12g), kim ngân (12g), cúc hoa vàng (10g), bạc hà (10g), ngải cứu (10g), xạ can (8g). Sắc uống ngày một thang. Dùng 5 – 6 ngày.

Chữa mồ hôi trộm ở trẻ em: Quả dâu chín (20g), lá dâu non (20g), đậu đen (30g), ô mai mơ (12g), vỏ hàu (12g, nướng vàng), sắc uông trong ngày.

Chữa kém ăn, mất ngủ, đau lưng, mỏi gối: Quả dâu chín phơi khô (100g), hạt vừng đen (100g), hạt sen bỏ tâm (100g), đỗ đen (100g). Tất cả sao vàng, tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với mật ong vừa đủ để làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống hai lần, mỗi lần 30 viên với nước đun sôi để nguội.

Chữa chân tay tê bại, tắc tia sữa: Tầm gửi cây dâu (30g), rễ ngưu tất (20g). Hai thứ thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.

Chữa ho ra máu: Tầm gửi cây dâu (30g), thài lài tía (30g), rễ cây chuối hột (10g), rễ cỏ tranh (10g). sắc uống ngày một thang.

Chữa động thai, đau bụng: Tầm gửi cây dâu (30g), lá ngải cứu (20g), cao ban long (20g, nướng cho thơm). Sắc uống trong ngày.

Chữa đái són, đau lưng: Tổ bọ ngựa cây dâu (30g), ba kích (30g), thạch hộc (20g), đỗ trọng (20g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, tán rây bột mịn, luyện với mật ong làm viên 6g. Ngày uống hai lần, mỗi lần 1 viên với ít rượu hâm nóng. Hoặc tổ bọ ngựa cây dâu (10g), hên tu (10g), kim anh (10g), sơn dược (12g), sắc uống làm hai lần trong ngày.

Chữa đái dầm: Tổ bọ ngựa cây dâu (12g), đảng sâm (12g), phá cố chỉ (12g), ích trí nhân (8g), thỏ ty tử (8g), ba kích (8g). sắc uống.

 

0/50 ratings
Bình luận đóng