A. CÁC THỦ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC PHIẾN

Công việc bào chế thuốc phiến rất nhiều, nhưng có 4 loại chính:
–   Làm bằng tay
–   Dùng nước
–   Dùng lửa
–   Dùng lửa và nước.

1. Làm bằng tay

1.1. Làm sạch dược liệu:

–   Rửa: các dược liệu trước khi đưa ra bào chế đều phải rửa sạch; thường là các loại củ, rễ, hột… (huyền sâm, bạch vi, vừng đen…).
Các rễ, củ phức tạp thì phải tách nhỏ ra rồi mới rửa.
Có những vị khi rửa không nên ngâm lâu, vì mất chất (cam thảo, sinh địa…) hoặc không rửa được (bối mẫu, quy v.v…).
Dược liệu có muối cũng phải rửa cho sạch bớt muối (côn bố, hải tảo, diêm phụ…).
Các hoa, cành nhỏ (cúc hoa, hồng hoa) không nên rửa, chỉ chọn lọc hoặc sàng sẩy bỏ tạp chất.
–   Sàng, sẩy: dùng giần sàng để bỏ rác, tạp chất lẫn trong dược liệu (tử tô, mạn kinh tử, liên kiều, cúc hoa).
–   Chải, lau: dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu như: hoài sơn, các loại sâm… Khi chải, lau có thể dùng nước, dùng rượu, xong rồi đem sấy lại cho khô. Cách này còn dùng để làm sạch những lông gây ngứa ở thân, lá (bồng bồng).

1.2. Chọn lọc

Bộ phận dùng của dược liệu phải chọn lựa để dùng cho thích hợp, đáp ứng với yêu cầu tác dụng của vị thuốc.
Bỏ gốc, mắt: ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân bỏ rễ, bỏ đốt (nhưng thường dùng cả đốt).
Bỏ rễ con, lông: vì ít tác dụng, lại gây tác hại, làm nặng thang thuốc (hoàng liên, hương phụ, xương bồ, tri mẫu).
Bỏ hạt: hạt là hột cứng trong dược liệu, không có tác dụng thì bỏ đi; ví dụ hạt ô mai (nhưng ít khi bỏ), sơn tra, sơn thù…
Bỏ chân, đầu: thuyền thoái, toàn yết có móng chân, răng nhọn dùng trong thuốc tán thì bỏ đi; đầu cóc có mủ độc phải bỏ đi (đầu từ dưới hai u mắt).
Bỏ vỏ, màng: đào nhân, hạnh nhân, sử quân tử có màng không cần đến thì giội nước sôi, để một lúc màng bong ra tước bỏ đi; có thứ phải rang cho vàng rồi xát cho tước vỏ (bạch biển đậu); có thứ đập nhẹ cho tróc và lấy nhân (qua lâu nhân).
Bỏ lõi ruột: bách bộ, mạch môn đông thì ủ hay đồ mềm rồi rút bỏ lõi vì gây “phiền”; kim anh tử thì nạo bỏ lông.

2. Dùng nước (Thủy chế)

Dùng nước để làm cho dược liệu được sạch, mềm, tiện cho việc thái mỏng, hoặc để giảm độc tính hoặc thay đổi tính năng của nó.
–   Rửa: đã nói ở trên.
–   Ngâm: dùng nước thường hay nước vo gạo đặc đổ ngập để dược liệu mềm dễ thái, bào hoặc làm giảm độc tính của dược liệu về mặt nào đó (hoàng nàn, hà thủ ô, mã tiền…)
Tùy từng dược liệu mà thời gian ngâm từ 1 giờ đến 24 giờ hay hơn. Ngâm lâu thì hàng ngày phải thay nước ngâm một lần.
Ủ: dùng nước lã, số lượng ít, làm cho dược liệu đủ thấm ướt để dễ bào thái (ba kích, hoài sơn, bạch truật), nếu ngâm lâu thì làm mất tính chất của thuốc, cách này gọi là ủ. Thường muốn ủ thì làm ướt dược liệu rồi lấy bao bố tời, vải ướt đậy kín vài giờ hay vài ngày thì dược liệu mềm, lấy ra bào thái (xuyên khung…).
Tẩm: dùng rượu, giấm, muối, gừng nhào vào dược liệu cho đủ ướt để cải biến thay đổi tính chất của dược liệu, cách này rất thường dùng.
Trước khi tẩm, dược liệu thường được thái miếng mỏng phơi hoặc sấy qua cho khô.
Thời gian tẩm: tùy từng dược liệu mà thời gian ngâm từ vài giờ cho đến 8 – 10 giờ.
Sau khi tẩm rồi đem sao lại cho khô, sao cho vàng là được.
Ý nghĩa của tẩm sao:
–   Tẩm rượu sao:
Rượu thường dùng là rượu trắng (350 – 400). Tẩm xong để nửa giờ đến 1 giờ rồi đem sao. Lửa nên để nhỏ, sao lâu để rượu đủ sức ngấm vào thuốc, hơi rượu chớm bốc có mùi thơm bay ra là được. Số lượng rượu dùng tùy theo dược liệu từ 50 đến 200 ml cho 1 kg thuốc.
Sách nói: tẩm rượu sao để thăng đề (dùng rượu để dẫn thuốc lên các bộ phận phía trên của cơ thể). Tẩm rượu sao để giảm tính lạnh, thêm sức ấm cho dược liệu (hoàng bá, hoàng cầm, hoàng liên, bạch thược, sơn thù, tục đoạn, thường sơn, nhục dung, phòng kỷ…).
Tẩm rượu để một số chất của vị thuốc dễ tan vào rượu, rồi sau tan vào thuốc sắc.
–   Tẩm gừng sao:
Gừng tươi rửa sạch, giã dập, thêm ít nước, vắt lấy nước để tẩm, để ngấm chừng một giờ rồi đem sao lửa nhỏ, sao lâu cho đến khi có màu vàng thấy mùi thuốc thơm là được, số lượng nước tẩm từ 5% đến 10% hoặc 15% tùy theo dược liệu.
Thường 1 kg dược liệu phải dùng từ 50 – 100g gừng. Các loại sâm cũng thường tẩm nước gừng sao thơm để tăng sức bồi dưỡng. Lửa nhỏ, nhiệt độ 500 – 600, thuốc hơi vàng là được, không để già quá.
Có những vị nhỏ, hay bị cháy sém như hồng tu sâm, nhị hồng sâm, tẩm gừng xong nên sao trên giấy. Trải giấy lên mặt chảo rồi đổ thuốc lên sao (nhiệt độ 300 – 400 gọi là sao cách giấy).
Tẩm gừng sao để mượn chất ấm của gừng làm giảm tính lạnh của dược liệu. Gừng làm ấm tỳ vị và giúp thêm tiêu hóa.
–   Tẩm muối sao:
Muối ăn một phần cho 5 phần nước đun sôi, lọc. Lấy nước tẩm đều với thuốc để 1 – 2 giờ rồi đem sao. Lửa nhỏ, sao chậm, đến khi mặt dược liệu vàng già là được (đỗ trọng, trạch tả, hoàng bá, phá cố chỉ, ích trí nhân). Số lượng nước tẩm thường là 5% dược liệu.
Tẩm muối sao để vị mặn dẫn thuốc vào thận.
–   Tẩm giấm sao:
Giấm có nhiều loại, thứ tốt nhất là loại giấm thanh nuôi bằng chuối, bún; mùi chua, thơm và hơi ngọt.
Dùng giấm ăn thường cũng được nhưng đừng chua quá (có thể pha thêm nước ấm cho loãng ra), nhạt quá thì giấm kém tác dụng. Nói chung giấm có độ acid acêtic 5% là vừa.
Nếu số lượng nhiều hơn, bỏ dược liệu vào một cái chậu dội giấm lên đảo đều. Lấy bao tải sạch đậy lại để qua một đêm, hôm sau lấy ra từng ít, sao vàng cạnh là được.
Số lượng giấm dùng là 5% dược liệu.
Các dược liệu thường tẩm giấm: hương phụ, miết giáp.
Sách nói: vị chua hay dẫn vào gan.
Sao giấm để làm tăng tác dụng chỉ thống của vị thuốc (huyền hồ), giảm tính kích thích của một số vị thuốc.
Giấm là loại acid, tẩm với dược liệu để gây một phản ứng nào đó giúp thuốc thêm tác dụng trị bệnh.
–   Tẩm đồng tiện sao:
Dùng nước tiểu trẻ em trai dưới 5 tuổi khỏe mạnh không bệnh tật, mới đái bỏ phần đầu và phần cuối, lấy phần giữa. Sau khi tẩm dược liệu thì đem sao vàng. Số lượng đồng tiện dùng thường là 5% dược liệu.
Tẩm đồng tiện để dẫn thuốc vào huyết và giáng hỏa (hương phụ).
–   Tẩm nước gạo sao:
Gạo mới vo, nước gạo nên đặc, không quá loãng.
Tẩm xong để một đêm cho thấm, sấy khô rồi sao vàng cạnh là được.
Tẩm nước gạo vo để làm bớt tính ráo của dược liệu (thường là dược liệu có tinh dầu như thương truật…)
Khi thấy đơn ghi tẩm mễ tráp, mễ cam tráp sao thì phải làm đúng kỹ thuật như trên, chứ không phải nhúng qua nước gạo rồi sao ngay.
–   Tẩm sữa:
Tẩm sữa để làm vị thuốc bớt tính ráo và dưỡng huyết.
Xưa hay dùng sữa người, nay dùng sữa bò (nửa sữa bò, nửa nước sôi). Bạch linh thường hay được tẩm sữa để 1 – 2 giờ rồi sao vàng. Hoài sơn cũng có dùng sữa tẩm một lúc rồi sao thơm. Khi sao dùng lửa nhỏ (ít dùng).
–   Tẩm mật sao:
Mật thường dùng là mật mía, muốn tốt hơn thì dùng mật ong. Mật không nên đặc quá, đặc quá mật chỉ bám ở ngoài khi gặp nóng, mật sẽ quánh lại ở phía ngoài mà không thấm vào dược liệu, do đó nên pha 1 nửa mật và 1 nửa nước sôi vào mật đặc, đun nhỏ lửa khuấy đều. Tẩm xong để 2 – 3 giờ cho thấm rồi đem sao; sao vàng cạnh sờ không dính tay là được (sao chậm).
Dược liệu thường tẩm mật: hoàng kỳ, cam thảo, tang bạch bì, tỳ bà diệp, bạch tiền, cù túc xác. Số lượng mật dùng tẩm tùy theo dược liệu, từ 10% -20%.
Mật là chất ngọt giúp thêm nhiệt lượng cho cơ thể, có tính cách bồi dưỡng. Chất ngọt làm giảm chất đắng, chất chát của một số vị thuốc; thêm sức ấm bổ cho hoàng kỳ, đảng sâm; thêm sức nhuận phế, chữa ho cho tử uyển, bách bộ v.v…
–   Tẩm hoàng thổ sao:
Dùng đất vách lâu ngày (trần bích thổ), đất lòng bếp (phục long can) hoặc hoàng thổ (đất sét), cứ 100g bột đất cho vào 1 lít nước đun sôi khuấy đều, chắt bỏ nước trên, gạn lấy nước giữa, bỏ cặn. Cứ 1000g dược liệu tẩm với 400ml nước bột đất trên để qua 2 – 3 giờ, phơi hoặc sao cho vàng là được.
Có người dùng bột vàng sao với dược liệu, dược liệu tự bám lấy một số bột đất trong khi sao do chất dầu tiết ra, sao vàng cạnh là được. Có người lấy bột đất sét hòa với nước cho vừa sền sệt tẩm vào miếng bạch truật cho lên chảo sao khô đến vàng cạnh.
Tỳ thuộc thổ, vàng là màu của thổ, đất là chất của thổ, sao hoàng thổ để dẫn thuốc vào tỳ vị.
Dược liệu có tinh dầu sinh ra tính ráo, đất sao với bạch truật hút một số dầu của bạch truật do đó làm giảm tính ráo đi.
–   Tẩm nước đậu đen, nước cam thảo:
Cứ 100g đậu đen cho vào 1 lít nước đun kỹ (đối với cam thảo thì tán bột ngâm 1 ngày 1 đêm) lấy nước sắc mà tẩm hà thủ ô, trâu cổ, viễn chí. Số lượng nước tẩm thường từ 10 đến 20% dược liệu.
Tẩm nước đậu đen, nước cam thảo để giải độc, làm tính thuốc êm dịu, đỡ chát.
–   Thủy phi: thủy phi là phương pháp tán nghiền dược liệu trong nước với mục đích sau đây:
+   Lấy bột mịn tinh khiết.
+   Làm cho bột mịn không bay lên được khi tán nhỏ.
+   Để tránh sức nóng làm biến hóa thành phần thuốc.
Trước hết đem tán dược liệu cho thật nhỏ (ngũ linh chi, thạch quyết minh), đổ nước vào cho ngập quá đốt ngón tay. Khuấy đều, hớt bỏ màng, bụi rác nổi trên mặt nước, đồng thời vừa khuấy nhẹ, vừa gạn nước sang bên khác. Cặn ở dưới thì bỏ đi. Nước gạn được để lắng một thời gian, đến khi nước thành trong thì chắt nước này bỏ đi. Chất lắng xuống đem phơi và tán lại thành bột. Làm được 2, 3 lần càng tốt.
Dược liệu kỵ nóng, không tán khô được (chu sa) thì cho vào ít nước rồi tán.

3. Dùng lửa (Hỏa chế)

Đem dược liệu trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa làm cho thuốc khô ráo, xám vàng hoặc thành than với mục đích để bảo quản hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc.

3.1. Sao

Sao là công việc thường xuyên của người bào chế, cũng là phương pháp quan trọng của việc bào chế thuốc phiến.
Đồ dùng để sao thường là chảo gang, cái đảo hoặc cái bàn xản hay đôi đũa cả và một chổi để quét dược liệu ra khỏi chảo gang. Trước khi sao, dược liệu cần phải được phán loại to, nhỏ để khi sao được vàng già và đều, không sao chung thứ to thứ nhỏ với nhau, vì thứ nhỏ bị cháy trước mà thứ to lại chưa được.
Khi sao cần chú ý đến những yêu cầu sau đây:
Về già non (màu sắc của thuốc trong chảo sao)
Về thời gian (nên nhanh hay chậm)
Về lửa (nên to, nhỏ, hay vừa)
Về khói thuốc (nhiều hay ít; đen hay vàng, trắng)
Tất cả các điểm trên đây cùng chú ý trong một lúc để dược liệu sao đạt được yêu cầu.
Có hai cách sao:
Sao không thêm chất khác.
Sao có thêm chất khác.
a. Sao không thêm chất khác:
–   Sao vàng: sao cho ngoài có màu vàng, trong ruột vẫn như màu cũ, cốt có mùi thơm hoặc để vị thuốc bớt tính lạnh. Lửa để nhỏ thời gian sao lâu, cốt để nhiệt độ thấu nóng vào đến ruột (ngưu bàng, hoài sơn, hòe hoa…). Có thú trước khi sao cần vẩy qua nước cho ẩm để sức nóng vào trong mà không cháy cạnh: ý dĩ, đậu đen…
–   Sao vàng hạ thổ:
Quét sạch đất (có người đào hố sâu dưới đất 10 – 30cm), sau khi sao úp thuốc xuống đất, đậy vung lại để 10 – 15 phút cho nguội (nên trải miếng vải hoặc giấy mỏng rồi úp thuốc lên cho được sạch sẽ).
Cách sao này có ý nghĩa như sau:
+   Cho vị thuốc khô dễ bảo quản
+   Cho vị thuốc lên mùi thơm để nhập tỳ, không buồn nôn.
+   Để giảm bớt tính lạnh của thuốc (phần âm) bằng cách dùng lửa. Khi dùng lửa như vậy thì phần dương của thuốc tàng lên gây hỏa độc (nóng, sốt, đinh mụn) cho nên phải hạ thổ để đất hút bớt phần dương của thuốc (hỏa độc) đồng thời trả lại ít phần âm cho thuốc (cân bằng âm dương).
Ví dụ: rễ cỏ xước, gối hạc, muồng trâu…
–   Sao già sém cạnh:
Áp dụng cho các vị thuốc chua chát hoặc tanh lợm quá (binh lang, huyết giác, thần khúc, chỉ thực, thăng ma) để thay đổi mùi vị, nhưng vẫn bảo đảm chất thuốc.
Dùng lửa to, khi chảo đã thật nóng mới bỏ thuốc vào, đảo không cần nhanh, khi thấy mặt ngoài sém cạnh nhưng màu ruột thuốc vẫn giữ nguyên là được.
–   Sao tồn tính (hắc sao):
Để thêm tác dụng tiêu thực, tả lỵ huyết, khái huyết hoặc làm thay đổi tính chất của thuốc (hương phụ, địa du, hắc kinh giới…).
Để lửa già, chảo thật nóng, đảo đều đến khi bên ngoài cháy đen, bẻ ra trong còn màu vàng cũ là được.
–   Sao cháy (thán sao):
Để thuốc có tác dụng chỉ huyết. Lửa để già, chảo thật nóng để dược liệu cháy đen, đảo đều, úp vung lại ngay để nguội (thán khương).
Sao cháy không có nghĩa là sao thành tro mà bao giờ cũng cho cháy đến 7/10. So với sao tồn tính, mức độ có cháy hơn.
Mấy điều chú ý khi sao cháy:
+   Không nên sao nhiều một lúc vì sẽ không đều và dễ gây hỏa hoạn.
+   Sao cái lớn trước, cái nhỏ sau.
+   Không nóng ruột, không châm lửa cho cháy, không phun nước vào, nhưng cũng có khi phải châm lửa đốt (ô mai).
+   Chuẩn bị cái vung để úp chụp đậy kín vì dược liệu sao cháy có lửa âm ỉ ở dưới (nếu không đậy vung mà bỏ đấy thì có thể tự nhiên bốc cháy gây hỏa hoạn).
b. Sao có thêm chất khác:
Sao thuốc bằng cát, bằng bột văn cáp (vỏ hàu hến) hoặc hoạt thạch là mượn các thứ này làm trung gian truyền nhiệt (cát giữ nhiệt ở 300oC, văn cáp 250oC, hoạt thạch 200 – 220oC). Khi sao, các thứ đó bao quanh miếng thuốc làm cho miếng thuốc không chạm đáy chảo mà thấm nhiệt đều và sâu vào miếng thuốc.
–   Sao cát:
Chọn thứ cát mịn nhỏ, đãi thật sạch, cho cát vào chảo rang trước cho nóng già (lửa lúc đầu nhỏ sau to dần). Sau khi cho thuốc vào đảo thật đều tay, đến khi được đổ vào sàng mà sàng lấy thuốc (xuyên sơn giáp, mã tiền…).
–   Sao hoạt thạch, văn cáp:
Áp dụng cho những chất dẻo, chất có dầu hoặc nhựa để khỏi dính vào nhau hoặc bốc mùi tanh khét và sau dễ tán (a giao, lông nhím…).

3.2. Chích

Tức là nướng dược liệu đã được tẩm mật (cam thảo, hoàng kỳ…) đến khi thây thơm, khó là được.

3.3. Đốt rượu

Áp dụng cho những dược liệu không chịu được sức nóng cao (nhung hươu và nai). Dùng cồn 90% để đốt hoặc hơ miếng nhung lên lửa cho cháy lông.
Làm như vậy không bị cháy sém, hơi rượu thấm nhung làm nhung thơm hơn, không gây tanh, bảo quản tốt.

3.4. Nung (hà):

Có nhiều cách nung:
–   Những loại khoáng vật nung trong những vò đất hay chảo gang đậy kín hoặc không đậy kín, xung quanh bên ngoài đốt lửa đến khi được lấy ra để nguội hoặc nhúng vào một chất loãng khác (giấm, nước hoàng liên) cho nguội. Cách này còn gọi là tôi.
Muốn trít được kín, dùng cám và lá khoai hai thứ bằng nhau cho thêm chút nước, nghiền cho nhuyễn rồi trít (2 chất này trộn với nhau thành 1 chất chịu được nóng không bị nứt nẻ), lấy giấy bản đặt lên chỗ trít rồi thấm nước cho ướt.
Bằng sa, phèn chua thường để hò không phải đậy kín; thạch tín phải đậy kín (thăng hoa).
–   Đưa dược liệu trực tiếp vào lửa nóng (thạch cao, mẫu lệ, thạch quyết minh…) để cho đỏ hồng.
+   Số lượng ít thì bỏ thẳng vào lò than, trên lưỡi dao hoặc mảnh ngói.
+   Số lượng nhiều hơn thì đặt dược liệu trên miếng sát, úp một cái chảo lên.
+   Số lượng nhiều hơn nữa thì cứ lượt trấu, lượt than, rồi lượt dược liệu và cứ thế cho đến hết, trên cùng phủ lớp trấu và than. Có thể đốt từ trên xuống hoặc từ dưới lên để cho cháy âm ỉ. Khi cháy gần hết rồi lấy dược liệu ra để nguội (thấy dễ bẻ là được). Nung xong rồi, dược liệu được đem tán bột dùng hoặc thủy phi rồi dùng.

3.5. Lùi (ổi)

Đưa thuốc vào tro nóng, không bén tới lửa, khi nóng chín thì lấy ra (ổi khương, cam thảo…). Có khi dược liệu được bọc vào giấy thấm ướt hoặc bọc cám rồi mới dúi vào tro nóng đến khi giấy hay cám khô là được (cam thảo, mộc hương…).
Phương pháp này có tác dụng là thu hút bớt một phần dầu trong dược liệu để giảm bớt tính kích thích.
3.6. Sấy (bồi)
Dùng lửa nhỏ hoặc tủ sấy để sấy dược liệu cho khô ráo, hơi vàng giòn là được (thủy điệt, manh trùng…).

4. Dùng cả lửa và nước (Thủy hỏa hợp chế)

Phối hợp lửa và nước để thay đổi tính chất của dược liệu.

4.1. Chưng

Chế biến dược liệu bằng cách đun cách thủy với những mục đích như sau:
–   Làm chín vị thuốc để tiện việc bào mỏng, chế thuốc tễ.
–   Thuốc chưng với rượu thường đổi chất thấy ngọt và thơm hơn, thêm sức ôn bổ, những vị đắng chát giảm đi, mùi tanh lợm mất đi, khí lạnh cũng bớt đi (thục địa, đại hoàng).
–   Thuốc được chưng với rượu khi vào tỳ vị dễ đồng hóa, dễ hấp thu nên có tác dụng bồi bổ.
–   Một số vị thuốc chưng với rượu, chất thuốc khó bị hư hỏng.
Xếp dược liệu vào trong cái cóng, đổ nước (hoặc tưới rượu) vào

cho vừa đủ, đậy kín. Đặt cóng vào thùng hay chảo có nước ngập nửa cóng, dưới đáy cóng có lót miếng gỗ để cóng không sát vào thùng. Đun nhỏ lửa, thời gian chưng tùy từng vị thuốc và số lượng chưng (50 kg thục địa phải 35 giờ, đại hoàng 18 giờ) cho vừa hết nước trong cái cóng.

Khi chưng xong rồi, đem phơi tái. Nếu còn nước dư trong cóng thì lấy mà tẩm cho hết. Làm như vậy 9 lần tức là “cửu chưng, cửu sái” (9 lần chưng, 9 lần phơi). Khi phơi lấy vải che để tránh ruồi, bụi.

4.2. Đồ (hông)

Dược liệu có thể ngâm cho mềm để dễ bào chế, dễ thái, nhưng ngâm lâu có thể mất chất cho nên phải đồ, tức là dùng hơi nước làm mềm dược liệu, thời gian đồ tùy theo số lượng và tính chất của thuốc (loại mềm xốp, cỏ hương vị thì thời gian đồ ít hơn). Đồ xong thường đem bào nóng thì dễ bào hơn.
Dụng cụ dùng là cái chõ, xếp dược liệu to xuống dưới, nhỏ lên trên; thời gian đồ không nên kéo dài nếu không dược liệu sẽ nát (phục linh, xuyên khung, bạch truật).

4.3. Nấu

Dùng một chất loãng (nước, dầu…) nâu dược liệu để làm mềm cho dễ bào chế, làm giảm tính kích thích của vị thuốc hoặc để làm tăng một số hiệu năng khác như nấu với dầu (mã tiền), nước đậu đen (hà thủ ô), nước thường (hoàng tinh). Nước nấu thường ngập quá dược liệu 5 – 10 cm (nấu cao) hoặc gấp 10 lần dược liệu (mã tiền).
Nấu khác với sắc, sắc là nấu đến một mức độ nào đó thì thôi.

5. Các cách chế khác

5.1. Chế

Một dược liệu qua nhiều chặng chế biến gọi là chế. Mỗi dược liệu có một cách chế riêng, phương pháp làm khá phức tạp như hương phụ tứ chế và thất chế, hoàng nàn chế…

5.2. Chế khúc:  

Dùng dược liệu tán nhỏ trộn với nước đóng thành bánh rồi sấy khô gọi là thuốc khúc (bán hạ khúc, thần khúc…).

5.3. Chế sương:

Sương có nghĩa là những bụi mưa lún phún bay lưng chừng. Thuốc chế sương là những vị thuốc được chế biến tinh khiết thành bột mịn (phê sương): cho dược liệu vào cái bát rộng miệng (thạch tín), úp cái bát khác nhỏ hơn, trét kín, đốt ở ngoài để dược liệu thăng lên và kết tinh vào lòng bát trên, cạo lấy phấn.
Yêu cầu của việc bào chế thuốc phiến:
–   Dược liệu bào chế thuốc phiến phải chọn thứ tốt, to mập để miếng thái hoặc bào được to đẹp.
–   Sau khi qua các giai đoạn chọn lọc, rửa sạch (củ, rễ, thân, lá), ngâm ủ, đồ cho mềm thì đem ra thái, bào. Độ dày của thuốc phiến chỉ nên 1 – 2 ly. Những thứ nhỏ vụn thì dùng làm thuốc hoàn tán.
–   Khi tẩm sao thuốc phiến phải nhẹ nhàng, tránh vô nát, hao thuốc.
–   Khi bào thái, tránh rơi vãi xuống đất rồi nhặt lên; khi phơi để vào mẹt sạch, chỗ cao, xa nơi đi lại.
–   Thuốc phiến không nên để lâu, các thứ tẩm sao thì nên dùng đến đâu bào chế đến đó, để lâu trong vòng từ 10 đến 15 ngày là cùng, cũng có thứ dùng đến đâu, tẩm sao đến đấy.
–   Để trong thùng, lọ kín, nơi khô ráo, thỉnh thoảng đem phơi lại, để tránh ẩm mốc.

0/50 ratings
Bình luận đóng