Các sulfonylurea
Các tác dụng phụ ở da là nhóm tác dụng phụ thường gặp nhất của các thuốc hạ đường máu. Các sulfonylurea thế hệ thứ nhất dường như gây nhiều tổn thương da hơn các thuốc thế hệ thứ hai. Đây là một trong những nguyên nhân khiến nhóm thuốc này ngày nay bị cấm sử dụng. Biến chứng da thường gặp nhất là phản ứng dị ứng, xuất hiện ở 1-5% người bệnh điều trị. Trong hầu hết các trường hợp nó là ban dát sần. Phản ứng thường mất đi, thậm chí ngay cả khi người bệnh tiếp tục điều trị bằng thuốc. Điều trị cần chỉ định cho các tổn thương này là điều trị triệu chứng.
Một phản ứng da khác, đặc biệt liên quan đến chlopropamid, là chứng đỏ da. Các triệu chứng thường xuất hiện sau khi uổng thuốc khoảng 15 phút, da đỏ bừng lên rõ rệt, đau đầu và nhịp tim nhanh thường xuất hiện sau uống rượu. Phản ứng này sẽ giảm đi một cách tự nhiên.
Insulin
Tỷ lệ mắc mới các biến chứng da liên quan đến điều trị insulin đã giảm đi từ khi đưa vào sử dụng các chế phẩm insulin có độ tinh khiết tăng lên. Có 3 tổn thương da chính liên quan đến điều trị insulin: dị ứng, teo mỡ và phì đại mỡ.
- Dị úng
Dị ứng được ước tính xảy ra ở 10-50% người bệnh điều trị bằng insulin có nguồn gốc động vật. Phản ứng dị ứng xảy ra trong vòng 1-4 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Dị ứng phát triển chổng lại hoặc các phân tử insulin, hoặc các tá dược và chất bảo quản, hoặc các protein nhiễm bẩn trong chế phẩm thương mại. Các triệu chứng dị ứng với insulin người, xảy ra ở dưới 1% người bệnh mới được điều trị.
Phản ứng có thể là tại chỗ hoặc hệ thống – tuy các phản ứng hệ thống rất hiếm. Trường hợp phản ứng tại chỗ người bệnh thường hay than phiền về các triệu chứng như cảm giác đau rát, kim châm và ngứa ở chỗ tiêm. Vùng tiêm trở lên ấm, đỏ, thậm chí phản ứng co cứng. Phản ứng xảy ra ngay sau khi tiêm và có thể giảm đi nhanh chóng trong vòng ít giờ hoặc từ từ trong vài ngày. Phản ứng dị ứng toàn thân hiếm gặp.
Chẩn đoán dị ứng insulin được đo bằng mức kháng thể kháng insulin hoặc bằng các test trong da với insulin. Điều trị đòi hỏi hoặc thay đổi chế phẩm insulin sang loại khác, tốt nhât là chọn loại insulin tinh khiết hơn, hoặc giải mẫn cảm với dị ứng nguyên.
- Teo mỡ
Là hiện tượng teo mỡ dưới da ở vùng tiêm insulin. Tuy nhiên có thể xảy ra ở các vị trí xa với vị trí tiêm insulin như mặt, cổ và ngực. Tổn thương có xu hướng xuất hiện từ 6 đến 24 tháng sau khi bắt đầu tiêm insulin; bệnh thường gặp ở nữ hơn nam. Một số cơ chế đã được để xuất để giải thích quá trình này, bao gồm sự mất biệt hóa các tế bào mỡ hoặc các quá trình hoạt hóa các phức hợp miễn dịch. Các yếu tố căn nguyên khác đã được đề xuất bao gồm pH, nhiệt độ của chế phẩm insulin, sự nhiễm bẩn alcohol bề mặt và dị ứng; tuy nhiên căn nguyên chính xác chưa được biết.
Các vị trí teo thể hiện là những vùng da hình tròn lõm xuống.
Tổn thương có thể mất đi khi tiêm insulin có độ tinh khiết cao hoặc insulin tái tổ hợp vào ngoại vi tổn thương. Khỏi bệnh tự nhiên hiếm khi xảy ra. Một số nghiên cứu cho thấy rằng dùng insulin bằng truyền dưới da liên tục hoặc bút tiêm là đủ để ngăn chặn và có thể đảo ngược quá trình teo mỡ do insulin.
- Phì đại mỡ
Là kết quả của các tác động đồng hóa sinh mỡ của insulin ở vị trí tiêm. Phì đại mỡ ở nơi tiêm thường gặp hơn ở nam so với nữ. Tổn thương xuất hiện không đau, không đổi màu da, trên lâm sàng giống như u mỡ. Các tổn thương này có thể xuất hiện ở vị trí tiêm, chúng được tạo thành từ mô mỡ và sợi. Trong hầu hết các trường hợp, tổn thương có thể khỏi tự nhiên, nếu thay đổi vị trí tiêm. Tuy nhiên, cũng đã có một số người bệnh có thể phát triển phì đại mỡ mặc dù đã luân chuyển vị trí tiêm và/hoặc sử dụng insulin có độ tinh khiết cao hơn.