Viêm màng phổi mạn tính có tràn dịch
Thường do lao và đôi khi có thể chuyển thành tích mủ màng phổi do lao (xem: bệnh lao phổi). Ung thư phổi nguyên phát hoặc thứ phát, u trung biểu mô, u lympho ác tính, nhồi máu phổi, cũng đều có thể gây ra tràn dịch màng phổi mạn tính.
Những trường hợp tích mủ màng phổi mạn tính không do lao thường là thứ phát từ tích mủ cấp tính nhưng không được điều trị bằng thuốc kháng sinh đầy đủ, và không được dẫn lưu tốt, hoặc là thứ phát từ một lỗ rò phế quản- phổi. Những trường hợp này thường trở thành nang (kén) nằm trong phổi.
Viêm màng phổi xơ hoặc viêm dầy màng phổi hoặc dính màng phổi
Hai lá màng phổi (lá thành và lá tạng) dính với nhau hoặc dầy lên là di chứng của viêm màng phổi thanh dịch-sợi huyết (thanh dịch-giả mạc) hoặc viêm màng phổi mủ, hoặc của tràn máu màng phổi, hoặc tràn khí màng phổi trị liệu (chủ động gây tràn khí màng phổi để điều trị). Nếu dính hoặc dầy trên diện tích rộng và co kéo thì di chứng này sẽ gây ra khó thở đáng kể.
Khi quan sát (nhìn) lồng ngực sẽ thấy nửa lồng ngực có di chứng nở rộng kém hơn trong các động tác hô hấp, và đôi khi bị những biến dạng như: lồng ngực hẹp, vẹo cột sống, gù-vẹo cột sống. Các cơ gian sườn thường bị teo. Gõ ngực thấy tiếng hơi đục. Rung thanh giảm, tiếng rì rào phế nang nghe như ở xa xăm.
Chụp X quang lồng ngực thấy có những điểm vôi-hoá (gọi là “xương cá mực”). Góc sườn-hoành bị mờ, vòm hoành biến dạng và trung thất bị đẩy lệch về phía có tổn thương. Một số thể viêm màng phổi mạn tính cần phải phẫu thuật cắt dính, đôi khi phối hợp với phẫu thuật cắt bỏ một tổn thương nằm ở bên dưới (ở phổi), mà những biện pháp điều trị nội khoa không còn hiệu quả nữa.