Trứng cá là một bệnh phổ biến ở lứa tuổi dậy thì cho đến khi 30- 40 tuổi. Có tới 90% thanh thiếu niên bị bệnh trứng cá. Bệnh thường xuất hiện ở những vùng da có nang lông tuyến bã hoạt động mạnh như­ mặt, ngực, lưng, bả vai … Hình thái lâm sàng của bệnh đa dạng tuỳ theo mức độ viêm nhiễm, tiến triển nhiều khi dai dẳng. Theo triệu chứng lâm sàng và tính chất của bệnh, ng­ười ta chia ra làm nhiều loại trứng cá khác nhau nh­ư trứng cá thông   thư­ờng, trứng cá đỏ, trứng cá hoại tử, trứng cá mạch l­ươn, trứng cá nghề nghiệp… Trong đó trứng cá thể thông thường chiếm đại đa số. Chẩn đoán trứng cá thư­ờng rất dễ, chỉ cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng.

Bệnh do nhiều tác nhân phối hợp gây ra nh­ư do tăng sản xuất bã nhờn, tăng sừng hoá cổ ống tuyến bã, tăng sinh sản Propionibacterium acnes, do phản ứng viêm, nồng độ dihydrotestosteron tăng cao ở mô…

Nhiều trư­ờng hợp phản ứng viêm quá mức với vi khuẩn Propionibacterium acnes đã gây ra nhiều hình thái sẹo khác nhau cho người bệnh. Sẹo mụn trứng cá là một di chứng của bệnh xảy ra trong và xung quanh những nang lông tuyến bã bị viêm. Sau quá trình viêm, mụn th­ường để lại hậu quả là những vết thâm, sẹo lồi, sẹo lõm, sẹo phì đại hay các lỗ dò… Bệnh tuy không có biến chứng nguy hiểm gì khác như­ng về ph­ương diện thẩm mỹ bệnh hoặc sẹo do bệnh gây ra làm ảnh hư­ởng nhiều đến tâm lý xã hội, làm ngư­ời bệnh mất tự tin, mặc cảm, nhiều khi hoang mang, lo lắng.

Do đời sống kinh tế xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng, việc điều trị sẹo lõm do mụn trứng cá gây ra là một nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với ngành Da liễu và thẩm mỹ. Trên thế giới đã có nhiều phương pháp nghiên cứu để điều trị sẹo trứng cá nh­ư cắt bỏ sẹo, bào da bằng laser … nhưng những phư­ơng pháp này thư­ờng tốn kém, đòi hỏi phẫu thuật viên có trình độ kỹ thuật cao và sự hợp tác chặt chẽ của bệnh nhân. Tuy nhiên, hiệu quả của những phương pháp đó nhiều khi vẫn không đ­ược như mong muốn.

Ở Việt Nam, một số phư­ơng pháp để khắc phục sẹo lõm do trứng cá đã được Viện Da liễu Quốc gia tiến hành nh­ư chấm  acid trichloacetic tại tổn thương, bào bờ tổn thương bằng máy bào da hoặc laser … nhưng các phư­ơng pháp này chư­a mang lại hiệu quả rõ rệt.

Hiện nay trên thị trường, một số sản phẩm bôi ngoài da được sản xuất từ tế bào gốc đã được sử dụng rộng rãi do có tác dụng tái tạo da, làm các vết thương liền nhanh, chất lượng liền sẹo tốt như­ Juvian, Juvigrow-S.

Bệnh trứng cá

Trứng cá là một bệnh của nang lông tuyến bã được biểu hiện với nhiều hình thái tổn thương đa dạng như  nhân, sẩn, mụn mủ, cục, nang trứng cá. Bệnh có thể để lại hậu quả sẹo lồi, sẹo lõm, sẹo quá phát. Bệnh xuất hiện nhiều nhất ở nam, nữ tuổi dậy thì cho đến 30-40 tuổi. Một số trường hợp trứng cá giảm dần, nhưng còn rất nhiều bệnh nhân tiến triển dai dẳng, từng đợt phát triển. Bệnh trứng cá nếu không được điều trị kịp thời, phù hợp có thể để lại sẹo vĩnh viễn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống.

Các tổn thương cơ bản

Biểu hiện lâm sàng của bệnh trứng cá phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau của một vài yếu tố: Sự tăng tiết chất bã cùng với sự ứ đọng chất bã do bít tắc ở cổ nang lông dẫn tới hình thành nhân nhỏ, bắt đầu quá trình hình thành mụn trứng cá. Từ nhân nhỏ có thể tiến triển thành hai loại nhân thực sù:

Nhân mở (nhân đầu đen): Là những kén bã vít chặt vào nang lông bị giãn rộng, hơi gồ cao khỏi mặt da. Thành phần của nó là chất sừng kết hợp với chất Lipit, xung quanh là lá sừng. Nhân có miệng giãn rộng, các chất có thể thoát ra được. Bề mặt có đầu đen do hiện tượng oxy hóa chất keratin. Loại tổn thương này thường dễ giải quyết, không gây ra những tổn thương trầm trọng hơn.

Nhân kín (nhân đầu trắng): Tổn thương thường nhỏ hơn, màu trắng hoặc hồng nhạt, hơi gờ cao và không có lỗ mở trên mặt da. Tổn thương này có thể tự biến mất hoặc chuyển thành nhân đầu đen, nhưng loại trứng cá này thường gây ra viêm tấy ở nhiều mức độ khác nhau.

Tuỳ thuộc vào tình trạng viêm nhiễm, trên lâm sàng biểu hiện nhiều hình thái tổn thương khác nhau. đặc điểm chung của các loại tổn thương này là viêm nhiễm ở trung bì với các biểu hiện là sẩn viêm, mụn mủ, cục, nang…

Khi phản ứng sát trên bề mặt da sẽ tạo nên tổn thương sẩn.

Khi các sẩn có trùm mụn  mủ ở trên gọi là sẩn mủ.

Khi vị trí ổ nhiễm trùng nằm sâu hơn sẽ hình thành các tổn thương cục và nang. Các nang chính là các tổn thương cục hoá mủ.

Cục, nang đứng thành cụm 2 – 3 cái, thương tổn viêm nhiễm nhiều hơn tạo thành ổ áp xe có xoang thông với nhau. Các xoang và ổ áp xe thường chứa dịch mủ lẫn máu.

Tổn thương thuyên giảm có thể để lại dát đỏ, dát thâm. Sau vài tháng, nếu tổn thương viêm nhiễm nhiều sẽ để lại sẹo vĩnh viễn, có thể là sẹo teo bằng chấm đến vết lõm sâu, có thể là sẹo lồi, sẹo dúm do bệnh nhân thường bóp nặn làm tổ chức bị tổn thương và hoại tử.

Các thể lâm sàng trứng cá

Trứng cá thông thường (Acne Vulgaris)

Là thể rất phổ biến ở cả hai giới đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tổn thương khu trú đặc biệt ở vùng da mì như mặt (má, trán, cằm), ở vùng giữa ngực, lưng, vai. Đôi khi nhân trứng cá ở vành tai, bọc ở ống tai, màng nhĩ và đặc biệt gặp tổn thương u, cục, nang ở cổ, gáy. Tổn thương rất đa dạng: Nhân trứng cá, sẩn nang lông, sẩn mụn, mụn mủ, u viêm tấy, áp xe trung bì và hạ bì. Các thương tổn này không phải thường xuyên kết hợp với nhau và có đầy đủ trên một bệnh nhân

Tiến triển của bệnh trứng cá thông thường có khuynh hướng giảm và khỏi một cách tự nhiên sau tuổi 20 đến 30 mà không cần điều trị. Các yếu tố như khí hậu, stress, thuốc bôi tại chỗ hoặc toàn thân, các chất hoá học và các nguyên nhân bên ngoài có thể làm nặng thêm bệnh trứng cá ban đầu.

Trứng cá đỏ (Acne Rosacea)

Trứng cá đỏ thường gặp ở người da trắng từ 30 đến 50 tuổi. Đa số gặp ở nữ giới, nhất là người có cơ địa da dầu. Tổn thương trứng cá đỏ thường ở vùng giữa mặt, tiến triển qua nhiều giai đoạn.Trên nền da đỏ xuất hiện từng đợt sẩn mủ, đôi khi nổi cộm giống như u hạt. Sau nhiều đợt tiến triển, nhất là ở nam giới thường có phản ứng phì đại, xơ hóa ở vùng mũi tạo thành mũi sư tử. È nhiễm khuẩn cũng đã được đề cập đến, đặc biệt là vai trò của Propionibacterium acnes và Demodex folliculorum

Trứng cá mạch lươn (Acne congobata)

Bệnh gặp chủ yếu ở đàn ông, bắt đầu sau tuổi dậy thì và tiếp tục kéo dài hơn trong những năm về sau. Thương tổn thường ở ngực, mặt, lưng, vai và cổ. Ngoài ra còn thấy ở mông và tầng sinh môn. Tổn thương bắt đầu bằng mụn ở nang lông, tiến triển to dần và loét rất đặc biệt. Các ổ mủ nông và sâu, có khi rất to, cục viêm thành cụm 2 – 3 cái, đi vằn vèo thành hang hốc với nhiều lỗ dò, nhiều cầu da, nhiều đảo xơ. Bệnh tiến triển lâu dài, dai dẳng khó chữa

Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis)

Loại trứng cá này chủ yếu gặp ở đàn ông, khu trú ở gáy và vùng rìa tóc. Đầu tiên xuất hiện các thương tổn viêm nang ở gáy, sắp xếp thành đường thẳng hoặc vằn vèo. Dần dần thương tổn tiến triển thành nhiều củ xơ hoặc dải xơ phì đại, gờ lên mặt da trông giống như sẹo lồi, trên bề mặt có một vài mụn riêng rẽ. Tiến triển lâu dài cuối cùng tự xẹp thành sẹo phẳng và trụi tóc vĩnh viễn

Trứng cá kê hoại tử (Acne miliaris necrotica)

Bệnh thường gặp ở nam giới, thương tổn khu trú một cách đối xứng ở trán, ở thái dương, rìa tóc. Hoại tử là đặc điểm của loại trứng cá này và nguyên nhân có thể do sự mẫn cảm của người bệnh đối với vi khuẩn. Đầu tiên là sẩn nang lông màu hồng, thường có ngứa và nhanh chóng biến thành mụn mủ mầu ngả nâu, bám rất chắc, xung quanh có một bờ viêm tấy mầu hồng, dưới vẩy là một ổ loét nhỏ, sau để lại sẹo lõm tồn tại vĩnh viễn

Trứng cá sét đánh(Acne fulminans)

Là thể hiếm gặp của trứng cá nang nặng, xuất hiện đột ngột ở bệnh nhân nam tuổi thanh thiếu niên. Tổn thương là các cục lan rộng, nhanh, nặng. Sau biến thành từng mảng viêm nặng, hoá mủ, nhanh chóng để lại vết loét không gọn. Vị trí chủ yếu ở lưng, ngực, nếu ở mặt thường là nhẹ hơn.Thể này cần có phương pháp điều trị đặc biệt

Trứng cá do thuốc (Acne Itrogenic)

Nhiều loại thuốc có thể gây nên thương tổn dạng trứng cá, khó có thể phân biệt với trứng cá thực sự. Tìm được nguyên nhân do thuốc rất khó, tuy nhiên có thể dựa vào đặc điểm lâm sàng, điều kiện xuất hiện và tiến triển của bệnh để nghĩ đến trứng cá do thuốc. Các loại thuốc và hoá chất có thể gây trứng cá nh­: Các hormon Androgen, ACTH, Testosterone, Progesterone… các Halogen như muối Iode, Brome, các thuốc chống lao, thuốc chống động kinh, thuốc hướng thần, thuốc chống phân bào, Corticosteroid

Trứng cá nghề nghiệp (Occupational Acne)

Nhiều loại dầu hắc Ýn có thể gây thương tổn dạng trứng cá. Thương tổn loại này gần giống như trứng cá thường: nhân, sẩn, mụn mủ và nang. Dấu hiệu phân biệt của trứng cá nghề nghiệp là vị trí phát tổn thương, tuổi bệnh nhân và lịch sử có tiếp xúc với hoá chất.

Bệnh thường gặp ở những công nhân, thợ sửa chữa máy do tiếp xúc với dầu thô, sáp và các loại carbure hydro no hoặc không no. Tổn thương thường tương ứng với vị trí tiếp xúc của da và thấy ở cánh tay, đùi, thân mình, đặc biệt ở những công nhân quần áo bị ngấm dầu mỡ, vì vậy gọi là trứng cá hạt dầu.

Trứng cá trước tuổi thành niên (Preadolescent acne)

Thể này được phân làm 3 loại đó là:

– Trứng cá sơ sinh (Neonatal acne): Xuất hiện trong 4 tuần đầu của thời kỳ sơ sinh và trẻ trai hay bị hơn trẻ gái. Tổn thương có thể tồn tại vài tuần, bệnh tự khỏi không để lại vết tích gì.

– Trứng cá trẻ em hay trứng cá tuổi ấu thơ (Infantile acne): Xuất hiện từ tháng thứ 2 và có thể là do trứng cá sơ sinh tồn tại dai dẳng. Loại trứng cá này có thể kéo dài thành trứng cá tuổi thiếu niên hoặc thành trứng cá tuổi thành niên.

– Trứng cá tuổi thiếu niên (Childhood acne): Nguyên nhân từ trứng cá trẻ em tồn tại dai dẳng. Yếu tố gia đình có vai trò quan trọng.

Trứng cá trước tuổi thành niên thường do nhiều yếu tố gây nên: Trứng cá sơ sinh và trứng cá trẻ em là kết quả từ hormon của mẹ truyền sang hoặc là do hormon Testosterone tiết ra nhiều từ tinh hoàn ở trẻ trai thời kỳ sơ sinh (10 tuần đầu sau khi sinh) kích thích tuyến bã. Mặt khác sự biến đổi về số lượng và chất lượng của Androgen tổng hợp của da hoặc sự tăng nhạy cảm của cơ quan ở da có thể cũng là nguyên nhân của loại trứng cá này

Trứng cá mũi sư tử (Rhinophyma)

Do tuyến bã hai bên mũi bài tiết rất nhiều, kèm theo thói quen nặn trứng cá của bệnh nhân làm cho tổ chức tuyến bã bị phì đại, quá sản thành u, lỗ chân lông giãn rộng làm cho mũi bị biến dạng.

Các thể lâm sàng khác

Ngoài những thể lâm sàng thường gặp ở trên, người ta còn nêu lên một số thể khác, mỗi loại đều có nét đặc thù riêng của nó.

Trứng cá do mỹ phẩm (Acne cosmetica): Bệnh thường gặp ở phụ nữ sử dụng nhiều kem xoa mặt, kem chống nắng.

Trứng cá trầy xước (Excoriated Acne): Loại này thường gặp ở những cô gái trẻ do bệnh nhân có yếu tố tâm lý hay nặn bóp, cào xước thương tổn kết quả để lại là các vết thâm, sẹo teo da.

Trứng cá do yếu tố cơ học (Acne Mechanica): Do trà xát, nặn bóp làm cho bệnh nặng hơn.

Trứng cá vùng nhiệt đới (Tropical Acne): Bệnh xuất hiện ở những vùng nhiệt đới vào mùa hè khi thời tiết nóng ấm.

Trứng cá mùa hè (Acne Aestivalis)

Trứng cá do chất tẩy rửa (Acne Detergicans)

Trứng cá trước chu kỳ kinh nguyệt: Tổn thương là những sẩn mủ, thường từ 5 đến 10 thương tổn, xuất hiện trước khi có kinh 1 tuần. Thường là do ảnh hưởng của LH ở đỉnh cao kích thích tổ chức đệm của buồng trứng tiết Androgen. Dùng viên tránh thai có Estrogen sẽ làm giảm bớt trứng cá loại này…

Dịch tễ học bệnh trứng cá thông thường

Tuổi

Bệnh trứng cá thông thường hay gặp ở tuổi thanh niên, 90% bệnh nhân ở lứa tuổi từ 13 đến 19, nhưng cũng có thể bắt đầu ở tuổi 20 đến 30 hoặc muộn hơn nữa ,. Một số tác giả khác thấy gặp chủ yếu ở tuổi 13 đến 25, nữ có thể muộn hơn là từ 30 đến 40 tuổi. Bệnh có thể bắt đầu sớm ở tuổi 8 đến 12, trẻ gái thường xuất hiện sớm hơn trẻ trai 1 tuổi và xuất hiện trước khi có kinh 1 năm. Nhưng nhìn chung cả hai giới bệnh thường giảm đi ở tuổi 20, đôi khi tồn tại đến tuổi 30, thậm chí ở tuổi 50 đến 59 tuổi còn thấy các tổn thương

Giới:

Nhìn chung các tác giả đều nhận xét rằng nữ giới gặp nhiều hơn nam giới ,Theo Goulden thống kê tại một khoa Da liễu ở Anh thì tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 24%, nữ chiếm 76%.

Nguyên nhân của bệnh trứng cá

Nguyên nhân của bệnh trứng cá cũng khá phức tạp, có liên quan tới nhiều yếu tố như nội tiết, tiêu hoá đặc biệt là tuyến sinh dục…Vai trò của các tạp khuẩn trên da, trong đó tụ cầu, liên cầu và nhất là Corinebacterium cũng được đề cập đến. Các vi khuẩn này thường ở trong nang lông, có khả năng thuỷ phân  chất bã thành acid béo, gây kích thích và gây viêm tổ chức nang lông.

Ngoài ra, trứng cá có thể do dị ứng một số thức ăn, thuốc (Bromua, corticosteroid, thuốc bôi goudon…) hoặc do tiếp xúc với một số hoá chất (Dầu, mỡ, nhựa đường…) hoặc do thiếu vitamin B2.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây bệnh, nhưng đại đa số các tác giả đều nêu ra 3 cơ chế chính gây nên trứng cá:

Sự tăng tiết bã nhờn.

Sự ứ đọng chất bã.

Sự viêm nhiễm.

Sự tăng tiết bã nhờn

Sự hoạt động của tuyến bã có sự biến đổi liên quan với các hormon, đặc biệt là hormon sinh dục nam và trong đó Testosteron là hormon có hiệu lực chủ yếu ở da đối với tế bào tuyến bã. Testosteron có tác dụng kích thích sự phát triển và bài tiết chất bã, đồng thời làm giãn rộng và làm tăng thể tích tuyến bã, nhất là các tuyến bã ở mặt. Vì vậy, người ta coi trứng cá là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của tuổi thành niên khi cơ thể nam có sự tăng tiết Testosteron.

Sự ứ đọng chất bã

Sự sản xuất quá mức các chất bã kết hợp với dầy sừng ở phễu nang lông gây nên hiện tượng ứ đọng chất bã. Nguyên nhân của sự dầy sừng này là do tác dụng kích thích của chất bã lên thành nang lông và sự thay đổi trong bản mẫu của quá trình sừng hoá trong lòng nang lông ,. Ngoài ra, một số yếu tố ngoại cảnh như nóng ẩm, khói bụi … hay các chất như sinh diêm, mỹ phẩm có nhiều chất béo tạo ra sự ứ đọng chất bã, làm bít tắc lỗ chân lông.

Sự viêm nhiễm

Các chất bã bài tiết lên mặt da đã tạo ra một màng mỡ trên da. Tại đây xẩy ra phản ứng thuỷ phân Triglyerid. Chất này thu hút các vi khuẩn nằm ở phần dưới cổ nang lông tuyến bã tiết ra men lipare hyualuronidase, proteases và licitinase phân giải chất mỡ béo thành acid béo tự do. Những men này ăn mòn thành nang lông, đông thời những yếu tố có tính chất hoá ứng động bị khuyếch tán qua thành nang lông vào trung bì, thu hút bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhập vào nhân trứng cá để thực bào các Propionibacterium Acnes và giải phóng các Enzym của lyzosom. Những chất này cũng tham gia làm vỡ thành nang lông. Tóm lại, quá trình viêm là do một phản ứng đối với dị vật và phản ứng độc tế bào của chất bã

Điều trị bệnh trứng cá

Do trứng cá là bệnh có nguyên nhân phức tạp nên việc điều trị phải được tính đến nhiều yếu tố , đó là:

Kiểu trứng cá: Trứng cá đơn thuần, trứng cá viêm nhiễm hay trứng cá phối hợp. Sự phân loại đúng sẽ dẫn tới việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.

Mức độ trầm trọng của bệnh sẽ hướng tới có nên chỉ định điều trị toàn thân hay không.

Xem xét tìm hiểu các yếu tố khác mà bệnh nhân có liên quan tới như: Thuốc đã dùng, môi trường làm việc…

Bệnh nhân cần được giải thích một cách rõ ràng về bệnh tật để họ sử dụng thuốc một cách phù hợp, không tự ngừng điều trị, không tự làm cho thương tổn nặng thêm như nặn, bóp trứng cá… Cần phải cho bệnh nhân biết rằng trứng cá không phải là bệnh thoáng qua, không thể chữa khỏi trong vòng vài tuần mà kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm sau tuổi trưởng thành. Sau khi điều trị ổn định bệnh nhân cần phải điều trị duy trì với một phương thức nhất định.

Mục đích của điều trị trứng cá là nhằm giải quyết những vấn đề sau:

Giảm bít sự tiết bã nhờn.

Ngăn chặt sự ứ đọng chất bã.

Hạn chế quá trình viêm.

Việc sửa chữa sẹo chỉ tiến hành khi bệnh trứng cá đã ổn định.

* Các thuốc sử dụng trong điều trị trứng cá:

– Thuốc làm giảm da dầu:

+ Thuốc bôi tại chỗ: Thuốc kháng Androgen về mặt lý thuyết có tác dụng nhất định nhưng thực tế điều trị Ít có kết quả. Do vậy, thuốc đó chỉ được coi là thuốc phụ, Ít người dùng.

+ Điều trị bằng hormon toàn thân: Ostrogen, acetate de cyproteron, Spironolactone.

+ Isotrétinoine: Có tác dụng làm teo tuyến bã, do đó là thuốc được lựa chọn điều trị vững bền hơn so với các thuốc khác. Nhưng giá thành cao, phải dùng lâu dài và đề phòng tai biến.

– Ngăn chặn sự căng ứ chất bã (chống sừng hoá cổ tuyến bã):

+ Vitamin A acid (Trétinoine) tại chỗ.

+ Isotrétinoine.

+ Peroxyde de benzoyle.

+ Adapalene: Là dẫn xuất của Acid naphthoic, có tác dụng giống Trétinoine nhưng Ít tác dụng phụ hơn. Sử dụng dưới dạng gel 0.1% bôi tại chỗ ,.

– Thuốc hạn chế viêm:

+ Peroxyde de benzoyle.

+ Tiêm Corticoid vào trong nang.

+ Điều trị lạnh đối với tổn thương dạng cục nang.

– Chống nhiễm trùng:

+ Kháng sinh tại chỗ: Erythromycine, Clindamycine.

+ Kháng sinh uống: Tetracycline, Erythromycine…

Quá trình hình thành sẹo và phân loại sẹo do trứng cá

Quá trình hình thành sẹo

Xảy ra từ khi bắt đầu có tác nhân gây bệnh, gồm 3 giai đoạn xen kẽ với nhau: Giai đoạn viêm, giai đoạn tăng sinh, giai đoạn chín và tạo sẹo.

Giai đoạn viêm

Sau các tổn thương của mụn tại chỗ sẽ xuất hiện tức thời 2 loại phản ứng: phản ứng mạch máu và phản ứng viêm.

Giai đoạn tăng sinh

Đồng thời với giai đoạn viêm, giai đoạn tăng sinh xảy ra với các quá trình tái tạo biểu mô, tăng sinh sợi, hình thành chất collagen, hình thành tân mạch và co tổn thương.

+ Tái tạo biểu mô: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình liền vết thương. Quá trình này bắt đầu từ giờ thứ 24, biểu mô phát triển từ xung quanh mép tổn thương vào hoặc từ các thành phần khác trong lớp sâu (nang lông, tuyến bã) các lớp tế bào đáy biểu bì tăng sinh và lan dần vào phía trong của tổn thương, tốc độ tăng sinh này đạt tối đa vào ngày thứ 2 – 3.

+ Co mạch tại chỗ: Là phản ứng đầu tiên và kéo dài 5 – 10 phút, do tổn thương lớp nội mạc mạch máu, hệ thống đông máu được khởi động kéo theo sự ngưng tập tiểu cầu tại nút máu đông. Tiểu cầu giải phóng một loạt các hoạt chất sinh học (prostaglandin, serotonin, histamin, protease, thromboxan…) có ảnh hưởng tới mạch máu, ngoài ra còn giải phóng các chất hoá hướng động và yếu tố tăng sinh.

+ Phản ứng tiếp theo là giãn mạch tại chỗ: Do tác dụng của các chất histamin, serotonin và kinin, tính thấm thành mạch tăng cao trong 48 – 72h đầu.

+ Phản ứng tế bào: Xảy ra chậm hơn các phản ứng của mạch máu. Các bạch cầu đa nhân, đơn nhân, fibroblasts di tản tới vùng tổn thương. Các đại thực bào chiếm đa số tại tổn thương vào ngày thứ 3 – 4. Ngoài vai trò thực bào, các tế bào này tiết ra các chất hoá hướng động và yếu tố phát triển để tăng sinh tế bào nội mạch, tế bào sợi non.

Phản ứng mạch máu và đáp ứng tế bào tại tổn thương xảy ra xen kẽ với nhau để chuẩn bị hình thành tổ chức hạt, tổ chức biểu mô và lắng đọng collagen. Trong những ngày đầu, sức căng tại tổn thương là nhỏ nhất, chỉ khi có sự lắng đọng collagen thì sức căng tại tổn thương mới tăng dần.

+ Tổ chức hạt: Hình thành từ ngày thứ 3 – 4 và tồn tại cho đến khi kết thúc biểu mô hoá. Tổ chức hạt bao gồm các tế bào viêm, tân mạch và tế bào sợi non trên nền của các chất collagen , fibrin, glycoprotein, và glucosaminoglycan. Các tế bào sợi non xuất hiện tại tổn thương từ ngày thứ 2 hoặc 3 và tạo ra collagen, elastin, fibronectin, glucosaminoglycan.

+ Collagen: được tổng hợp mạnh vào ngày thứ 4, sau đó các tế bào collagen tập hợp lại thành sợi và bó sợi. Số lượng collagen tăng dần kéo theo sự tăng sức căng của tổn thương. Trong thời gian đầu, collagen nhóm 1 chiếm đa số, sau đó collagen nhóm 3 thay thế dần cho đến giai đoạn hình thành sẹo. Tổng hợp collagen đạt mức tối đa vào tuần thứ 3 và quá trình này giảm dần trong giai đoạn hình thành sẹo.

Giai đoạn tạo sẹo

Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình liền tổn thương, sẹo trở nên rõ ràng và chắc hơn, sẹo giảm dần màu đỏ và nhạt màu dần. Quá trình này gắn liền với hiện tượng sửa chữa và tổ chức lại các thành phần của sẹo. Collagen nhóm 3 chiếm đa số và có sự điều chỉnh lại cấu trúc của sợi collagen. Lúc đầu các bó sợi collagen sắp xếp lộn xộn, dần dần được sắp xếp lại theo cấu trúc lớp song song, do vậy làm tăng sức căng của sẹo. Sự hình thành tân mạch giảm dần cho đến lúc sẹo trở thành vô mạch. Giai đoạn này kéo dài từ 12-18 tháng.

Phân loại sẹo do trứng cá

Sẹo hình phễu( Icepick scars)

Đường kính sẹo dưới 2 mm, hình phễu, đáy nằm sâu ở líp trung bì hoặc mô dưới daBệnh trứng cá

Sẹo đáy hình lòng chảo( Rolling scars)

Đường kính 4 – 5 mm. nguyên nhân do các dải sợi xơ từ lớp trung bì dính vào lớp thượng bì gây co kéo tạo nên những sẹo có đáy lòng chảo, bÒ mặt sẹo tương đối bình thường

Sẹo đáy phẳng( Boxcar scars)

Thường có hình tròn hay hình oval. Bờ sẹo thẳng đứng. Đường kính sẹo từ 1,5 –  4 mm. Sẹo phân làm 2 nhóm:

Sẹo nông:  đáy sâu từ  0,5 – 1mm.

Sẹo sâu:    đáy sâu ≥ 5mm.

Sẹo lồi (Keloids)

Là sự tăng sinh collagen ở da, lành tính, thường là do sự đáp ứng quá thừa của mô với tổn thương da.

Các phương pháp điều trị sẹo lõm

Tuỳ theo mỗi loại sẹo mà có những chỉ định điều trị thích hợp, có thể kết hợp nhiều phương pháp trên cùng một bệnh nhân.

Cắt bỏ sẹo

Cắt bỏ toàn bộ sẹo cả chiều sâu và chiều rộng đến lớp mỡ. Sau đó khâu kín vùng cắt bằng chỉ không tiêu 6/ 0. Khoảng cách cắt bỏ giữa 2 sẹo tối thiểu cách nhau từ 4 – 5 mm, nhằm tránh sức căng bề mặt của của các vết khâu. Vì vậy không thể cắt bỏ tất cả sẹo cùng một lúc. Khoảng thời gian giữa 2 lần cắt sẹo khoảng 4 tuần, dụng cụ dùng để cắt bỏ sẹo có thể dùng Punch Biopsy hoặc laser CO2.

Cắt và nâng cao bề mặt sẹo

Dùng Punch Biopsy hoặc laser CO2 cắt bỏ toàn bộ chu vi sẹo từ bề mặt đến lớp mỡ, nâng nhẹ toàn bộ khối sẹo lên trên, cao hơn bề mặt da một chút, sau đó khâu cố định với mô da xung quanh bằng chỉ 6/ 0.

Cắt mô sợi co kéo

Sử dụng kim Nokor hoặc dao mổ số 11, đặc điểm kim Nokor: Đầu mũi kim thực chất là dao mổ hình tam giác. Sát mũi dao có một lỗ thông. Khi gắn vào Syringe chứa nước muối sinh lý hoặc thuốc tê. Đâm kim vào vùng chu vi sẹo luồn song song đáy sẹo sau đó dịch chuyển kim để cắt các sợi co kéo, tiếp theo là bơm dung dịch nước muối sinh lý hoặc thuốc tê để giải phóng đáy sẹo ra khỏi các sợi co kéo.

Tái tạo bề mặt da

Sau khi tiến hành các phương pháp đã nêu từ 4 – 6 tuần vết thương sẽ lành, lúc này các phương pháp tái tạo bề mặt da có thể được đặt ra.

Có nhiều phương pháp để tái tạo lại bề mặt da tuỳ theo kinh nghiệm của thầy thuốc và nhu cầu của người bệnh lựa chọn phương pháp nhằm đạt hiệu quả tối ưu cho người bệnh.

Lét da bằng hoá chất: Tuỳ theo loại hoá chất và nồng độ, độ xuyên thấu mô mỡ cho những kết quả khác nhau (AHA, Tretinoin, TCA, Glycolid acid, Phenol).

Bào da bằng trục quay cơ học: vận tốc vòng xoay lớn từ 15.000- 60.000 vòng/phút có thể tái tạo bề mặt da. Tuy nhiên phương pháp này cũng có nhiều hạn chế.

Bào da và tái tạo bề mặt da bằng laser, có 2 loại laser thường dùng:

+         Laser ERBIUM YAG bước sóng 2940 nm đỉnh hấp thụ nước lớn gấp 16 lần laser CO2 do có độ xuyên thấu qua da rất mỏng, tạo ra hiệu ứng bóc lớp rất chính xác với tổn thương nhiệt rất Ít.

+         Laser CO2 bước sóng 10.600 nm, là loại laser năng lượng cao, rất thông dụng, chế độ phát tia: xung, siêu xung và liên tục. Hiện nay chức năng sử dụng độ chính xác đã phát triển kèm theo với các thiết bị cắt lớp được xử lý trên máy tính, chùm tia laser có thể bóc lớp bề mặt sẹo một cách chính xác.

+         Laser CO2 thế hệ mới nhất đã có hệ thống dẫn tia bằng sợi phalê nhằm thay thế hệ thống trục khuỷu dẫn tia bằng hệ lăng kính phản xạ toàn phần, kèm theo là hệ thống cắt lớp vi xử lý 3 chiều.

+         Các thiết bị laser thế hệ mới hiện giá thành rất đắt, chưa thể ứng dụng rộng rãi.

Bào da trong sẹo bằng laser CO2

Cơ chế tác động laser CO2 lên tổ chức sống bao gồm 2 hiệu ứng:

– Hiệu ứng quang đông: Khi năng lượng bức xạ laser không quá lớn và được giải phóng trong thời gian không quá nhanh, khi nhiệt độ vùng chiếu tác động từ 60-1000 C  thì tổ chức sinh học bị đông kết và hoại tử.

– Hiệu ứng bốc bay tổ chức: Khi năng lượng laser tăng, nhiệt độ vùng chiếu > 3000 C khi đó các tổ chức sinh học nhận đủ năng lượng để bốc hơi, đó là cơ sở ứng dụng của dao mổ laser.

– Phương pháp này có hạn chế là do không được trang bị thiết bị vi xử lý cắt lớp 3 chiều nên việc xác định độ sâu cần bào tuỳ thuộc rất nhiều vào kỹ năng thao tác của người sử dụng. Việc xác định mật độ năng lượng dựa vào tính toán thủ công và kinh nghiệm có thể cho sai số lớn.

Thuốc chấm tại chỗ dung dịch Acid Trichloracetic 100% (TCA)

Acid Trichloracetic được Jean Baptiste Dumas phát hiện ra năm 1840 ,

– Thành phần: Acid Trichloracetic có công thức hóa học: CCL3COOH, phân tử lượng: 163,4 g/mol, tỷ trọng: 1,63g/cm3, thể rắn, điểm nóng chảy ở 57oC, nhiệt độ sôi ở 196oC, vị chua, tan rất dễ dàng trong nước.

Acid Trichloracetic được tạo thành do phản ứng giữa chlorin và acid acetic với sự có mặt của các chất xúc tác phù hợp:

CH3COOH + 3Cl2 → CCl3COOH + 3HCl

– Tác dụng: trước đây người ta đã sử dụng dung dịch Acid Trichloracetic để xóa vết xăm, điều trị hạt cơm. Trong nghiên cứu này chúng tôi dùng hoá chất trên gây tổn thương mới tại đáy của các vết sẹo, tác động làm kích thích tái tạo tế bào da tại chỗ dựa trên cơ chế làm lành vết thương cấp tính để làm đầy sẹo.

Sản phẩm tế bào gốc (Thuốc bôi Juvian)

Tế bào gốc là những tế bào không chuyên biệt (chưa biệt hoá) nhưng có khả năng trở thành những tế bào chuyên biệt và có những chức năng mới tương ứng. Tế bào gốc của da có khả năng mở ra nhiều hướng nghiên cứu khác nhau cho các bệnh rối loạn ở da như: Rụng tóc, sẹo do trứng cá, bỏng, bạch biến, các bệnh da có bọng nước … Tế bào gốc làm việc như một hệ thống sửa chữa, tái tạo bằng cách phân chia không giới hạn để biệt hóa thành các loại tế bào khác. Dựa vào nguồn gốc, tế bào gốc được phân thành 4 dạng chính đó là: Tế bào gốc phôi, tế bào gốc thai, tế bào gốc từ dây rốn và tế bào gốc từ người trưởng thành.

Sản phẩm Juvian được sản xuất từ môi trường nuôi cấy tế bào gốc của dây rốn. Juvian bao gồm các thành phần dinh dưỡng quan trọng cho da như Collagen, type 1, acid Hyaluronic, L-Glutamine, Soybean extract, Vitamin C, L-Proline, L-Cystein hydrochloride-H2O, L- Lysin hydrochloride, L –Argirine hydrochloride, Cholin Chloride, I – Inositol,…Vì thế, Juvian hỗ trợ tế bào gốc của da tăng cường hoạt động, tăng sinh các chất ngoại bào, các chất nền tảng của trung bì do đó làm tái tạo da nhanh chóng. Sản phẩm còn có tác dụng đặc biệt tốt cho những trường hợp da thiểu dưỡng, teo nhẽo, khô, bong vảy hoặc bị tổn thương do ánh năng mặt trời, do dị ứng thuốc hoặc mỹ phẩm, một số bệnh lý về da như viêm da cơ địa, sẹo lõm do trứng cá, nếp nhăn, rám má … Juvian làm cân bằng độ ẩm của da, duy trì pH phù hợp cho da, hạn chế sự mất nước giúp da giữ độ ẩm tốt hơn kéo dài tới 24h sau khi bôi. Juvian làm chậm quá trình hình thành các nếp nhăn, ngăn chặn sự hình thành các sắc tố trên da, làm tăng sức đề kháng của da đối với các yếu tố bên ngoài

Trong quá trình viêm ở da do bệnh trứng cá gây nên, cấu trúc collagen nằm dư­ới lớp hạ bì bị phá vỡ. Sự thiếu hụt collagen và fibrin ở các mô làm cho tổn th­ương viêm bị lõm xuống tạo thành sẹo lõm. Bên cạnh đó, các tế bào hắc tố bị kích thích sau quá trình viêm làm tăng sinh quá nhiều hạt sắc tố nên tạo thành sẹo thâm. Quá trình liền vết thương cần sự tham gia của nhiều yếu tố khác nhau như các fibroblasts, collagen, axit hyaluronic, đại thực bào, sợi elastin, chất nền tảng ngoại bào, tế bào sắc tố và tế bào biểu mô. Chỉ một hay nhiều các thành phần trên bị ức chế hay bị kích thích thì vết thương sẽ khó liền hoặc sẹo sau khi liền sẽ không được phẳng, mềm mại như da bình thường vùng lân cận. Các sản phẩm từ công nghệ tế bào gốc sẽ thúc đẩy và điều hoà quá trình liền vết thương.  Juvian sẽ giúp nhanh chóng tái tạo tổ chức tại các vùng sẹo lõm, làm đầy lên các vết sẹo do cải thiện chất lượng liền sẹo, hạn chế được nguy cơ tạo thành vết sẹo đỏ hồng hoặc sẹo thâm sau điều trị trứng cá.

Do các thành phần của sản phẩm là các dưỡng chất với tỷ lệ tương tự như các chất tự nhiên vốn có trong cơ thể nên Juvian khi được sử dụng bằng đường bôi rất dễ dàng hấp thụ qua da, không gây bất kỳ hiện tượng dị ứng hay kích ứng gì như khi sử dụng các hóa chất khác.

5/52 ratings
Bình luận đóng