Là bệnh nhiễm vi nấm sợi tơ ở tóc và râu. Nấm ở da đầu thường là bệnh của trẻ em ở trước tuổi dậy thì. Nấm ở râu gặp ở nam giới. Nấm tóc Favus thì ở cả hai phái.

TÁC NHÂN SINH BỆNH VÀ HÌNH ẢNH LÂM SÀNG

Bệnh do các loài vi nấm Microsporum và Trichophyton lây từ người qua người hoặc từ súc vật qua người. Sự viêm nhiễm bắt đầu từ bề mặt da đầu, phát triển ở lớp sừng rồi xuyên vào nang lông.

  • Nấm tóc: Người ta phân biệt 4 loại nấm tóc

Nấm tóc do Microsporum.

Nấm tóc do Trichophyton.

Nấm viêm hay còn gọi là Kerion.

Nấm tóc Favus.

Nấm tóc do Microsporum: Mảng rụng tóc lớn, tròn, tóc bị xén đều, phát huỳnh quang màu vàng xanh, thường một mảng rụng tóc.

Nấm tóc do nấm Trichopyton: Nhiều mảng rụng tóc nhỏ, đôi khi có mủ, tóc gãy rất ngắn không đều, có khi có hình ảnh cồi mụn do tóc gãy tận gốc.

Nấm tóc do nấm Trichopyton
Nấm tóc do nấm Trichopyton

Nấm tóc Favus: Mảng rụng tóc trên da đầu viêm, hồng ban vảy, thấy những lỗ lõm hình chén phủ bởi vảy mềm vàng. Bệnh do vi nấm Trichophyton schoenleinii.

Nấm viêm hay Kerion: Còn gọi là Nấm tổ ong do lây vi nấm từ súc vật là những mảng viêm nhô cao vài cm, có mủ, đau, có hạch viêm, thường không trở nặng và không đê nhiều sẹo như những bệnh nấm khác. Có hạch vệ tinh, bệnh có thể do bôi corticoid kéo dài trên thương tổn chẩn đoán nhầm lúc đầu.

  • Thể không điển hình và nấm ở râu:

Chẩn đoán nấm da đầu có thể khó vì có nhiều thể không điển hình:

Thể có dạng gàu lan tỏa: Do Trichophyton soudanense, rụng tóc kín đáo khó nhận biêt.

Thể có vảy dày luồn trong tóc, không có rụng tóc do Mỉcrosporum canis.

Thể thay đổi do bôi thuốc: Nhiều kerion sau khi bôi corticoid không dúng chỉ định.

Thể ở người suy giảm miễn dịch nhất là nhiễm HIV: Có thể giống Viêm da tiết bã hay Vảy nến.

Đa số các trường hợp nấm ở râu giống Viêm nane lông cấp có mủ, khó phân biệt với Viêm nang lông do vi khuẩn, chỉ xét nghiệm vi nấm mới có thể cho bằng chứng xác định bệnh.

XÉT NGHIỆM VI NẤM

Xét nghiệm vi nấm cần thiết vì sự đa dạng của bệnh. Bệnh không điển hình, nhất là để theo dõi điều trị và cho phép trở lại trường học khi xét nghiệm âm tính.

cần làm trước khi bôi thuốc hoặc uống thuốc kháng nấm hoặc sau một thời gian không điều trị ít nhất 2 tuần. Xét nghiệm làm là soi trực tiếp, cấy vảy và tóc bệnh.

ĐIỀU TRỊ

Trị liệu ít nhất 6 tuần vừa tại chỗ và toàn thân.

  • Tại chỗ

Imidazole hoặc Ciclopiroxolamin (dung dịch và kem).

Sát khuẩn mũ nón, lược bằng thuốc kháng nấm dạng bột.

Cắt tóc bị nhiễm từ vòng ngoài của mảng.

Gội đầu bằng dẫn xuất Imidazole.

  • Toàn thân

Chọn lựa đầu tiên là Griseofulvin: 1g/ngày ở người lớn (20mg/kg/ngày ở trẻ em) trong 6-8 tuần với xét nghiệm vi nấm mỗi tháng để xác định lành bệnh.

Chọn lựa thứ hai là Terbinafin: 250mg/ngày ở người lớn; trẻ em: 125mg/ngày từ 20- 40kg; 62,5mg/ngày trẻ < 20kg trong 4 tuần. Đây là thuốc tốt cho chỉ định này.

  • Biện pháp khác

Điều trị người chung quanh (trường học, nhà trẻ).

Tìm và trị súc vật bị nhiễm.

Cho trẻ nghỉ học.

  • Thuốc trong tương lai

Itraconazole100mg/ngày trong 30 ngày, dung nạp tốt hơn Griseofulvin; trẻ em với liều 5mg/kg/ngày trong 4-6tuần (89% lành bệnh).

Itraconazole điều trị ngắt khoảng 5mg/kg/ngày/tuần, nghỉ 3 tuần, làm 3 đợt.

Fluconazole: Điều trị nấm tổ ong do Trichophyton mentagrophytes: 50mg/ngày trong 20 ngày. Đối với nấm Microsporum canis, Microsporum audouinii, Trichophyton tonsurans:100mg/ngày trong 8 tuần ở trẻ từ 6-11 tuổi.

0/50 ratings
Bình luận đóng