THẠCH XƯƠNG BỒ
Tên khoa học: Acorus gramineus Soland var. Macrospadiceus; Họ ráy (Araceae)
Bộ phận dùng: rễ.
Dùng rễ cái to, không dùng rễ con. Thứ khô, da màu nâu, mắt dày, ngắn gióng, rắn, thơm, thịt hồng hồng, không mốc mọt, vụn nát là tốt. Đen không thơm là xấu.
Ta thường dùng cả thủy xương bồ (Acous calamus cùng họ) có nhiều; thạch xương bồ hiếm, cây bé hơn thủy xương bồ.
Thành phần hóa học: Hai cây đều có tinh dầu (chủ yếu là asaron); thủy xương bồ còn có acorin và tanin.
Tính vị – quy kinh: Vị cay, tính ôn. Vào hai kinh tâm và can.
Tác dụng: Thông khiếu, thông khí, trục đờm, giải độc, sát trùng.
Công dụng: Trị kinh giản, đơm nghịch lên, phong hàn tê thấp, đáp ngoài trị nhọt, lở.
Liều dùng: Ngày dùng 4 – 12g.
Kiêng kỵ: Âm hư, huyết hư kém, hoạt tinh, nhiều mồ hôi không nên dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
Không dùng thứ “nê xương” hoặc “hạ xương” rễ như rễ tre, màu đen, vị tanh. Chi dùng thứ mọc ở trên đá, rễ non vàng nhạt, một tấc có chín đốt là đúng và tốt (cửu tiết xương bồ). Cạo bỏ vỏ, lấy cành dâu trộn lẫn đồ chín, thái lát phơi khó (Lôi Công).
Rửa sạch, ủ mềm thái lát dùng hoặc sao qua.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
Nếu còn đất, rửa

sạch, ủ một đêm, bào, phơi khô.
Bảo quản: để nơi khô ráo, tránh ẩm, tránh nóng vì dễ mốc.

0/50 ratings
Bình luận đóng