Ô MAI (mơ)
Tên khoa học: Prunus armeniaca L.; Họ hoa hồng (Rosaceae)
Bộ phận dùng: Quả cây mơ đã chế khô ra màu đen, da nhẵn. Bấy lâu nay chỉ dùng mơ muối làm ô mai, không đúng, thứ này gọi là bạch mai.
Thứ ô mai tốt: quả to, nhiều thịt, không mọt, không chảy nước, sắc đen.
Thành phần hóa học: có acid citric, acid tactric, chất đường (chủ yếu là saccharose), một ít dextrin, tinh bột, có caroten, vitamin C, tanin, pectin.
Tính vị – quy kinh: Vị chua, tính ôn, bình. Vào ba kinh: tỳ, phế và can.
Tác dụng: Nhuận phế, sát trùng, tiêu nhọt.
Công dụng: Trị ho tức, trừ nhiệt, chỉ đau (dùng sống) trị lỵ ra huyết (sao cháy).
Liều dùng: Ngày dùng 3 – 6g.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
– Chế biến thành ô mai: lấy quả mơ chín ương ương, dùng tro rơm rạ tẩm ướt đem quả mơ lùi vào rồi rửa sạch, đồ chín, phơi khô.
– Bào chế để dùng: dùng nguyên quả ô mai hoặc bỏ hột lấy toàn nhục và sao qua hoặc đốt tồn tính, tán bột dùng.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Chế biến thành ô mai: lấy quả mơ gần chín, đồ cho hơi mềm, không chín quá rồi phơi 3 – 4 lần cho khô.
Sau khi đồ phơi tẩm nước bồ hóng (2kg quả tẩm 20g bồ hóng với 200ml nước) một ngày đêm rồi đem phơi sấy cho khô, lại làm như vậy nhiều lần (5 – 6 lần) thì được mơ đen.
Hoặc đem quả mơ xanh hong qua, để lên giàn bếp 6 tháng thì mơ đen.
– Bào chế để dùng: sao qua tán bột (bỏ hột) hoặc sao cháy tồn tính. Để mơ đen trong cái
chảo sao cho nóng già, châm lửa đốt, đảo cho cháy đều; khi ngọn lửa bắt đầu tàn thì lấy vung chụp lại cho tắt, để nguội, lấy ra tán bột mịn (chỉ có ó mai mới dùng cách đốt này).
Bạch mai: dùng thịt bỏ hột, dùng sắc thì không cần bỏ hột.
Bảo quản: đậy kín, để nơi khô ráo.