BA KÍCH
Tên khoa học: Morinda officinalis How. Họ cà phê (Rubiaceae)
Bộ phận dùng: rễ cây ba kích, vỏ ngoài màu tro, già thì sắc tím đậm, non thì sắc trắng, tía nhạt khi khô, vỏ dăn lại, đứt đoạn trông thấy lõi, ruột tím đen, mềm ngọt. Thứ to bản rộng trên 1 cm, già, tím thì tốt.
Thành phần hóa học: có vitamin C, chất đường và một số chất khác.
Tính chất – quy kinh: vị cay, ngọt, tính hơi ôn. Vào kinh thận.
Tác dụng: thuốc cường dương, bổ trung tiêu, điều huyết mạch, ích khí.
Chủ trị – liều dùng: mạnh gân cốt, trị phong, trị di mộng tinh, liệt dương. Ngày dùng 4 – 12g.
Kiêng kỵ: người âm hư, tướng hỏa thịnh không nên dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
a. Lấy nước khởi tử ngâm ba kích một đêm cho mềm, vớt ra, ngâm rượu, một lúc vớt ra. Dùng cúc hoa sao với ba kích cho vàng, bỏ cúc hoa, lau ba kích bằng vải để dùng (Lôi Công).
b. Tẩm rượu một đêm cho mềm, thái nhỏ, sấy khô. Nếu dùng gấp, ngâm nước nóng cho mềm rồi rút lõi, thái nhỏ dùng (Lý Thời Trân).
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Rửa sạch đất.
– Ủ mềm, rút bỏ lõi, thái nhỏ;
– Tẩm rượu để 2 giờ, sao qua (thường dùng);
– Có thể nấu thành cao lỏng (1ml = 5g)
Bảo quản: để nơi
ráo, mát, kín, không nên để lâu vì, dễ mốc, mọt. Sắp tới mùa xuân mưa ẩm cần phơi sấy nhẹ trước, có thể sấy hơi diêm sinh.