Căn nguyên

Chỉ riêng phospho trắng là độc. Chất này được sử dụng để chế tạo phân bón, pháo lậu, và thuốc diệt chuột. Hơi phosphua (phát sinh khi nước hoặc một acid tác động vào phospho) cũng rất độc. Sesquisulfua phospho (trong diêm quẹt lửa) ít độc hơn.

Đường xâm nhập: tiêu hoá, tử vong bắt đầu từ liều 1 mg/kg phospho trắng.

Triệu chứng

  • Nuốt phospho: ngộ độc do nuốt phospho trắng có biểu hiện là hơi thở nạn nhân có mùi tỏi, có những dấu hiệu tiêu hoá và ỉa chảy. Sau một thời kỳ cải thiện tạm thời khoảng 2-3 ngày, thì thấy xuất hiện vàng da do tan tế bào gan, suy thận, và co giật vì giảm calci-huyết. Ngộ độc phospho cũng gây ra những rối loạn tim, và có thể đưa tới ngừng tim ngay trong những giờ đầu tiên.

Thở hít hơi phospho: thở hít phải hơi phosphua gây ra những rối loạn hô hấp, và sau 1-2 ngày, thì tiếp theo bởi những dấu hiệu tương tự như trường hợp ngộ độc cấp tính qua đường tiêu hoá.

  • Tiếp xúc da: phospho trắng khi tiếp xúc với da gây bỏng độ 2 và độ 3.
  • Ngộ độc mạn tính: ngộ độc mạn tính gây ra loãng xương, đôi khi kèm theo hoại tử xương hàm dưới.

Điều trị

Trong trường hợp nuốt phospho, thì rửa dạ dày bằng thật nhiều nước (nhiều lít) hoặc bằng một dung dịch permanganat kali 0,1%. Trong trường hợp tiếp xúc da, thì rửa da dưới vòi nước trong 10-15 phút. Truyền-thay máu sớm (trước 8 giờ). Điều trị tình trạng sốc, giảm calci-huyết và điều chỉnh những rối loạn nước-điện giải . Chống chỉ định cho sữa và thuốc tẩy dạng dầu.

0/50 ratings
Bình luận đóng