Viêm cầu thận mãn thường gặp ở người cao tuổi, do sức đề kháng yếu và khả năng tập luyện kém nên dễ dẫn đến căn bệnh này.
Người mắc chứng bệnh này có thể Là do viêm thận cấp kéo dài không được điều trị hoặc điều trị không đúng phương pháp nên bệnh cứ theo sự tiến triển mà thành. Nhưng thời kỳ viêm thận cấp tính lại không biểu hiện rõ, khi thấy xuất hiện triệu chứng lâm sàng thì bệnh đã chuyển sang giai đoạn mãn tính.
Theo Đông y đây là chúng “thuỷ thũng” và “hư lao”. Bệnh kéo dài lâu ngày chính khí suy yếu, công năng điều tiết thuỷ dịch của 2 tạng tì, thận bất thường gây ra hàn thấp tổn thướng tỳ, thận (dương khí suy) hoặc do dương hư kéo theo âm hư, tổn thương can thận âm huyết làm cho ngũ tạng trong cơ thể không được nuôi dưỡng. Khí bệnh nặng thì âm dương khí huyết đều đã suy nhược.
Viêm cầu thận mãn tính được điều trị bằng thuốc y học cổ truyền. Viêm cầu thận mãn được phân thành nhiều loại.
Tỳ dương hư:
Triệu chứng: Người bệnh bị phù toàn thân, phù tái đi tái lại nhiều lần, người nặng nề, tay chân mỏi mệt, đầy tức bụng, sắc mặt vàng xanh bủng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch vi hoãn.
Phương pháp điều trị: Ôn dương, hoá thấp, lợi thũng.
*Bài thuốc: Vị linh thang gia giảm.
Quế chi 4 – 6 g, Trạch tả 12 – 16 g, Thương truật sao 8 – 12 g, ý dĩ 10 – 12 g, Hậu phát 6 – 8 g, Xa tiền tử 16 – 20 g,, Xuyên tiêu 3 – 4 g.
Nếu người bệnh bị đổ mồ hôi nhiều, sợ gió thì sắc uống thêm: Sinh hoàng kỳ 12 – 16 g, Phòng phong 4 – 6 g.
Nếu ăn uống kém, sợ lạnh, phân lỏng hoặc sệt (đi nhiều lần trong ngày) thì nên uống thêm: Phụ tử chê 4 – 6 g, Can khương 4 – 6 g. Bạch truật sao 12 – 16 g, Đảng sâm cao 10 – 12 g.
Tỳ thận dương hư:
Triệu chứng: Người mắc chứng bệnh này có triệu chứng phù thũng không rõ hoặc phù kéo dài (nhất là ở hai mắt cá chân), bụng chướng, đau mỏi lưng gối, sợ lạnh, lạnh ở hai chân, tiểu ít, mặt trắng xanh, ngũ canh tiết tả (sáng sớm đi cầu phân lỏng). Chất lưỡi hồng nhạt, bệu, rêu trắng mỏng. Mạch trầm vi tế.
Phương pháp điều trị: Ôn thận, kiện tì.
*Bài thuốc: Quế phụ lý trung thang hợp với thận khí hoàn phụ tử chế 8 – 10 g, Sơn dược sao 16 -20 g, Thục địa 16 – 20 g, Trạch tả 12 – 16 g, Sơn ;hù 10 – 12 g, Can khương 4 – 6 g, Bạch truật sao 12 – 16 g.
Nếu bệnh bị phù rõ thì sắc thêm: Ngưu tất 12 – 16g, Xa tiền tử 16 – 20 g.
Khi thấy ăn ít, đầy bụng, phân lỏng thì sắc bỏ bớt Thục địa, Sơn thù, cho thêm Đảng sâm 12 g.
Khi đau mỏi lưng nhiều, sợ lạnh, tiểu ít, ít phù thì bỏ Trạch tả, Can khương, thêm Đỗ trọng 10 – 12 g, Thỏ ty tử 10 – 12 g, Lộc giác phiến 10 – 12 g.
Nếu mắt mỏi nhiểu, khí đoản (ngắn hơi) váng đầu hồi hộp, nặng mặt, dễ đổ mồ hôi thì bỏ Trạch tả, Can khương, gia Đảng sâm 10 – 12 g, Hoàng kỳ 12 – 16 g, Đương quy 10 – 12g.
Nếu kèm ngoại cảm: sợ gió, phát sốt, ho, phù, gia ma hoàng 4 – 6 g, tế tân 1 – 2 g, quế chi 6 – 8 g.
Can thận âm hư:
Triệu chứng: Phù ít hoặc không phù, chóng mặt, đau đầu, mặt đỏ, ù tai, hoa mắt hoặc mù mắt, lưng mỏi đau, khô miệng, hồi hộp, đổ mồ hôi trộm, dì tinh, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng.
Mạch vi huyền (đa số bệnh nhãn thể can thận âm hư dẫn đến huyết áp tăng cao).
Phương pháp trị liệu : Tư dưỡng can thận.
*Bài thuốc: Kỷ cúc địa hoàng thang gia giảm
Chế thủ ô 12 – 16 g, mẫu lệ 20 – 24 g, sinh địa 12 – 16 g, cúc hoa 12 – 16 g, câu kỷ tử 12 – 16 g, đơn bì 8 – 12 g, tay ký sinh 16 – 20 g, bạch tật lệ 12 – 16 g-
Nêu người bệnh thấy trong người không được khoẻ mạnh hay có tâm trạng hồi hộp, mất ngủ thì nên sắc uống thêm Toan táo nhân sao 8 – 12 g.
Khi người bệnh đi tiểu ít, người bệnh cảm thấy nóng nực thì gia thêm tri mẫu 10 – 12 g, hoàng bá 10 – 12 g.
Nêu thấy chóng mặt, đau đầu nhiều nên bỏ cúc hoa, gia thêm hạ khô thảo 12 g, câu đằng 16 g, thạch quyết minh 2g.
Nếu bị phù nhẹ: bỏ vị chế thủ ô, cúc hoa, bạch tật lê. Nhưng cho thêm tiền thảo 16- 20 g, thổ phục linh 10 – 16 g, trạch tả 10 – 12 g.
Người bệnh muốn điều trị bệnh của mình, phải tự tạo cho mình một cách nghỉ ngơi hợp lý, làm việc, ăn uống phù hợp chặt chẽ (ăn nhạt, kiêng mỡ động vật, ăn đủ đạm).