Thành phần
Nhân sâm 3-5g, Chích Hoàng kỳ 15g, Đương qui 8g, Xuyên Tục đoạn 5g, Hoàng cầm 5g, Bạch thược (sao rượu) 6g, Bạch truật (sao) 10g, Thục địa 10g, Xuyên khung 4g, Chích Cam thảo 4g, Sa nhân 4g, Gạo nếp 1 nắm 5g.
Cách dùng
Nước một bát rưỡi, sắc 7 phần, uống xa bữa ăn. Nhưng có thai, 3-5 ngày thường uống 1 lần, sau 4 tháng, không lo nữa. Hiện nay một tễ sắc 3 lần uống lức bụng rỗng sáng trưa tối.
Tác dụng
Bổ khí kiện tỳ, dưỡng huyết an thai.
Chủ trị
Phụ nữ có thai, khí huyết lưỡng hư. Thai động không yên hoặc liên tiếp trụy thai, mắc mặt trắng nhạt, mệt mỏi vô lực, không muốn ăn uống, lưỡi chất nhạt, rêu trắng mỏng, mạch hoạt vô lực hoặc trầm nhược.
Phương giải
Phương này là phương tễ an thai, trên cơ sở bát trân thang bỏ đi Phục linh, thêm xuyên Tục đoạn, Hoàng cầm, Sa nhân, ngạnh mễ mà thành. Từ điểm này lý giải trong bổ trung ích khí của “bổ khí” tại sao bỏ Phục linh, ở đây tại sao bỏ Phục linh? Vì cần an thai. Vì khí huyết hư, bản thân thai không đủ nên cố gắng tránh thuốc thẩm thấp. Do đó trong khí dùng Phục linh đều cần xem xét đến tác dụng hai mặt, tức bổ khí tâm tỳ, còn thẩm thấp hạ hành. Khi an thai cần khí đủ, cần khiến thai ổn cố, thì không thể dùng thuốc hạ hành. Ngoài ra, trên cơ sở bát trân thang thêm Hoàng kỳ, Sa nhân, Tục đoạn, Hoàng cầm, ngạnh mễ. Ở đây đưa ra vấn đề Hoàng cầm và Bạch truật là “ thánh dược an thai”. Vì thường nói, trị bệnh phụ khoa “ tiền sản nghi lương, hậu sản nghi ôn”, (trước đẻ nên lương, sau đẻ nên ôn), vì thuốc quá nhiệt không lợi cho sự an tịnh phát dục của thai, thai dễ động. Cần để thai cố thể vững chỗ, có thể phát dục rất tốt, thì cần dựa vào khí huyết cơ thể mẹ. Khí huyết cơ thể mẹ chủ yếu dựa vào hậu thiên mà ra, nên dùng Bạch truật để kiện tỳ, thêm tác dụng mạnh tỳ. Đồng thời phối hợp Hoàng cầm thanh nhiệt, như vậy có thể kiện tỳ lại có thể thanh nội nhiệt, như vậy có thể khiến thai bình an trưởng thành, nên nói nó là thánh dược an thai, thì đảm bảo có thể bảo vệ thai, đây là không đúng. Đồng thời thông qua vấn đề này cũng nói rõ an thai là an thế nào, an thai cũng không chỉ là dùng thuốc lương, khi khí huyết đại hư mà hư hàn, ôn dược thích hợp cũng cần dùng, ví dụ phương tễ này chính là như vậy.
Ở đây còn đưa ra vấn đề ngạnh mễ. Ngạnh mễ không chỉ dưỡng khí tỳ vị, còn bổ phế khí. Nên trước đây phương tễ bổ phế dùng ngạnh mễ, trong phương tễ bổ vị dùng ngạnh mễ.
Tục đoạn có thể bổ can thận. Bởi có tên tục đoạn chính là vì bổ can thận thì có thể nối liền gân cốt. Vì can chủ cân, thận chủ cốt, sau khi bổ can thận thì có thể thúc đẩy sự sinh trưởng, mạnh lên của gân cốt. Ngoài ra, Tục đoạn còn có 1 tác dụng chính là thông lợi huyết mạch do đó trong phối ngũ dùng để an thai, cần chú ý phối ngũ với thuốc bổ khí. Vì nó tuy là bổ can thận nhưng nó lại thông lợi huyết mạch. Ở đây là muốn an thai nếu dùng quá nhiều thì mâu thuẫn với mục đích cần nhất là an thai. Do đó trong điều trị phụ khoa bệnh kinh nguyệt có đau lưng, trong thời kỳ kinh nguyệt đối với lượng dùng Tục đoạn cũng cần chú ý. Vì Tục đoạn bổ mà thông, thực tế lâm sàng chúng ta thích dùng Đỗ trọng, Tang kí sinh hơn, để an thai mà dùng tốt hơn Tục đoạn. Đặc biệt là khi thai động không yên, có ra máu lượng ít, bỏ Xuyên khung thêm Đỗ trọng thán. Nhưng với sảy thai liên tiếp, không có dấu hiệu báo sảy thai thì thái sơn bàn thạch tán trên cơ bản là dùng được, vì cô ta còn chưa phát hiện dấu hiệu báo trước sảy thai chỉ là do mấy lần có bầu đều xảy ra xảy thai, có thể dùng phương này sau khi có thai dùng uống khi còn chưa có hiện tượng sảy thai, tăng cường tác dụng an thai.