SEN
Nelumbo
            Dược liệu gồm nhiều bộ phận của cây sen – Nelumbo nucifera Gaernt, họ Sen – Nelumbonaceae.
Đặc điểm thực vật và phân bố
            Cây được  trồng ở nước ta trong các ao đầm. Thân rễ hình trụ mọc trong bùn gọi là ngó sen, dùng làm thực phẩm. Lá mọc lên khỏi mặt nước, cuống lá dài có gai nhỏ. Phiến lá hình đĩa to, đường kính 40-70 cm, có gân tỏa tròn. Hoa to, gồm rất nhiều cánh hoa màu trắng đỏ hồng, đều, lưỡng tính, nhiều nhị, bao phấn 2 ô, mở bởi kẽ nứt dọc, trung đới mọc dài ra thành một phần trụ màu trắng gọi là hạt gạo, phần này có hương thơm dùng để ướp chè. Lá noãn nhiều và rời nhau đựng trong một đế hoa loe hình nón ngược. Vòi ngắn, núm nhụy chỉ nhô lên khỏi đế hoa. Mỗi lá noãn sinh ra một quả, trong đựng một hạt, hạt không có nội nhũ. Hai lá mầm nạc dày bao bọc bởi một màng mỏng. Chồi mầm (tâm sen) mang 4 lá non gập vào trong, có diệp lục.
Bộ phận dùng và chế biến
Hạt Sen – Semen Nelumbinis là hạt còn màng lụa hồng bên ngoài, phơi khô, còn gọi là liên nhục.
Quả Sen – Fructus Nelumbinis là quả già phơi khô, còn gọi là liên thạch.
Tâm Sen – Embryo Nelumbinis là chồi mầm phơi khô, còn gọi là liên tâm.
Tua Sen – Stamen Nelumbinis là nhị hoa, còn gọi là liên tu.
Lá Sen – Folium Nelumbinis, hái vào mùa hè và mùa thu, phơi khô bỏ cuống.
            Ngoài ra người ta còn dùng gương sen tức là đế hoa gọi là liên phòng, ngó sen là thân rễ gọi là liên ngẫu.
Thành phần hóa học
            Hạt có thành phần chính là tinh bột. Hạt tinh bột hình trứng, rốn hạt hình vạch, kích thước hạt tinh bột từ 3-25 mm.
            Lá có nhiều alcaloid đã được phân lập và xác định cấu trúc: nuciferin, anonain, roemerin, pronuciferin, N-nornuciferin, O-nornuciferin,  N-methyl-coclaurin, 4-methyl-N-methylcoclaurin, nepherin, liriodenin, dehydroroemerin, armepavin,  dehydronuciferin, dehydroanonain, N- methylsococlaurin. Nuciferin là thành phần chính. Ngoài alcaloid ra, lá sen còn có các flavonoid: quercetin, isoquercitrin, leucocyanidin, leucodelphinidin.
R=
R1=
R2=
Nuciferin
N-Nornuciferin
O-Nornuciferin
CH3
CH3
H
CH3
CH3
CH3
CH3
CH3
CH3
Anonain
Roemerin
-CH2-
-CH2-
H
CH3
Liriodenin
Pronuciferin
 
R=
R1=
R2=
Armepavin
N-methylcoclaurin
N-methylisococlaurin
CH3
CH3
H
CH3
H
CH3
CH3
CH3
CH3
           
             Tâm sen có các alkaloid sau đã được biết: liensinin, isoliensinin, methyl-corypalin, neferin, lotusin, 1(p.hydroxybenzyl) 6,7-dihydroxy-1,2,3,4-tetra-hydroisoquinolin.
           Gương sen có quercetin.
R=
R1=
R2=
Liensinin
Isoliensinin
Neferin
CH3
H
CH3
H
H
H
H
CH3
CH3
Công dụng
            Hạt sen thường dùng để nấu chè ăn hoặc làm mứt. Trong y học dân tộc cổ truyền dùng hạt sen làm thuốc bổ tỳ, thuốc chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ, di tinh, đi tiêu lỏng. Ngày dùng 30g.
            Tâm sen là thuốc an thần, chữa mất ngủ. Ngày dùng 5 g.
Lá sen cũng tác dụng như tâm sen, ngoài ra còn dùng làm thuốc cầm máu.       
Ngày dùng 20g.
            Gương sen và tua sen cũng dùng làm thuốc cầm máu, chữa di mộng tinh.
Ngô Văn Thu (2011), “Bài giảng dược liệu”, tập I. Trường đại học Dược Hà Nội
Phạm Thanh Kỳ (1998), “Bài giảng dược liệu”, tập II. Trường đại học Dược Hà Nội
Đỗ Tất Lợi (2004), “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học
Viện dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản khoa hoc kỹ thuật.
Bugleweed (Zelan)

style="text-align: justify">Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật