Định nghĩa: chứng quên là mất một phần hoặc toàn bộ trí nhớ. Chứng quên có thể thuộc kiểu quên về sau (không thể nhớ lại được những sự kiện mới xảy ra), hoặc thuộc kiểu quên về trước (không thể nhớ lại những sự kiện xảy ra trước một mốc nào đó).
Nói chung chứng quên thường hay hỗn hợp, và nổi trội về một kiểu quên này hay kiểu quên kia. Những hội chứng quên mô tả dưới đây không kèm theo những rối loạn tri thức, rối loạn cảnh giác hoặc ngôn ngữ.
LAO SUY: Quên các tên hoặc sự kiện, thường hay thấy ở người già (gọi là chứng quên “lành tính”). Trong những trường hợp khác chứng quên về trước và về sau có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh Alzheimer, bệnh Pick hoặc lú lẫn lão suy
BỆNH NÃO WERNICKE: Căn nguyên: thiếu vitamin B1 (thiamin), nghiện rượu mạn tính, bệnh tê phù, suy dinh dưỡng mạn tính, những phản ứng tâm thần với chán ăn tâm thần.
Chứng quên: quên về trước kéo dài, với giải tổ chức những ký ức, thường được thay thế bởi chứng bịa chuyện. Trí nhớ về sau ít bị hư hại hơn (xem: hội chứng Korsakoff)
CHẤN THƯONG sọ NÃO: Chứng quên về trước trội hơn, thường xảy ra sau khi mất tri giác (bất tỉnh), nhưng không nhất thiết. Chứng quen này có thể khỏi hoàn toàn, nhưng cũng có thể để lại di chứng vĩnh viễn và gây ra tàn phế. Thời gian diễn biến của chứng quên này có thể chỉ trong vài phút sau chấn thương, nhưng cũng có thể kéo dài hàng chục năm, trong thời gian đó còn tổn tại những mẩu ký ức. Chứng quên về sau tương đối kém rõ nét hơn và nói chung về sau hết hẳn.
VIÊM NÃO: Chứng quên về sau rất rõ nét, thường được bù trừ bởl chứng bịa chuyện: chứng quên về trước kém rộng rãi. Tiên lượng rất xấu.
TAI BIỂN MẠCH MÁU NÃO: Xuất huyết và huyết khối trong khu vực những mạch máu não trước và sau thường gây ra rối loan trí nhớ, vái biến chứng là những triệu chứng thần kinh-tâm thần và nhận thức phức tạp, không nằm trong khuôn khổ của hội chứng quên đơn thuần.
Cơn đột quỵ trì nhớ (quên tổng thể thoáng qua, đợt quên, khuất não gây quèn): thường xuất hiện ỏ phụ nữ từ 50-70 tuổi. Quên xảy ra đột ngột và kéo dài từ vài phút tới vài giờ thuộc typ quên về sau, quên nhiều, toàn bộ (cả ký ức vận động, thị giác, lẫn lời nói). Khám thần kinh thấy binh thường. Phục hổi nhanh hoặc dần dần. Tái phát hiếm thẩỳ. Cơn đột quỵ trì nhớ được cho là do rối loạn mạch mầu tạm thời ở vùng của động mạch đốt sống-nen (gây thiếu máu ỏ hồi hẩĩ mã).
Chụp động mạch đốt sống: có thể gây tai biến là chứng quên về trước tạm thời, thường không nhận ra.
THIỂU OXY NÃO: sau tai nạn ngừng tim-hô hấp, chết đuối, thắt cổ, ngộ độc CO, người ta thấy có những hội chứng quên phức tạp, cả ve sau và ve trước, tạm thời hoặc vĩnh viễn.
u NÂO: Chứng quên hay xuất hiện nhất là với những khối u lan rộng ở vùng nền sọ (u sọ-hẩu, u tuyến yên), thường có bien chứng ià tăng áp lực nội sọ.
ĐỘNG KINH: một số cơn động kinh tiếp theo sau bởi chứng quên tạm thòi, đôi khi có kèm thêm những động tác tự động phức tạp.
THUỐC: barbituric, muối lithi (lithium), benzodiazepin, có thể gây ra chứng quên VỚI typ quên về sau trội hơn.
SỐC ĐIỆN: có thể tiếp theo bởi chứng quên về sau lâu hơn so vối chứng quên về trước HYSTERIA: Chứng quên về trước kéo dài, không có các triệu chứng quên về sau.