Khái niệm
Ngũ tâm phiền nhiệt là chỉ hai lòng bàn tay, bàn chân phát nhiệt và tự cảm thấy vùng ngực phiền nhiệt trong khi thân nhiệt thăng cao. Cũng có trường hợp có chứng trạng hư phiền phát nhiệt mà thân nhiệt không thăng cao.
Nghịch điều luận-sách Tố vấn có câu “Âm khí ít mà dương khí thịnh cho nên nhiệt mà phiền đầy” và “Âm hư sinh nội nhiệt”, xếp phiền với nhiệt là một chứng trạng đồng thời xuất hiện quy nạp vào thể âm hư.
Nếu Thận hư thấp nhiệt dồn xuống, hai lòng bàn chân nóng kiêm cả chứng bụng chân cũng phát nhiệt và đau không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
- Ngũ tâm phiền nhiệt do âm hư: Có chứng trạng ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều thì nhiệt tăng, tay muốn cầm vật lạnh, khi nằm thì tay chân thích để ngoài chăn, mồ hôi trộm, di tinh, gò má đỏ, lưng gối mỏi, miệng ráo họng khô, chất lưỡi đỏ lựng, sáng bóng hoặc ít rêu, mạch Trầm Tẽ Sác.
- Ngũ tâm phiền nhiệt do huyết hư:về buổi chiều tự cảm thấy lòng bàn tay, bàn chân nóng, hễ mệt nhọc tí chút là bệnh tăng, tinh thần, thân thể mỏi mệt, kém ăn biếng nói, hồi hộp đầu mắt choáng váng, chất lưỡi nhạt, mạch Tế Nhược hoặc Tế Sác.
- Ngũ tâm phiền nhiệt do tà ẩn náu ở âm phận: Lòng bàn tay chân nóng, tâm phiền, kém ngủ có khi sốt nhẹ tối nhiệt, sáng mát, nhiệt lui vẫn khó chịu, hoặc ăn được mà vẫn gầy còm, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế hơi Sác.
- Ngũ tâm phiền nhiệt do hoả uất: Ngũ tâm phiền nhiệt, ngực khó chịu, tình chí không thoải mái, nóng nảy hay giận, đầu trựớng miệng đắng, tiểu tiện đỏ, phụ nữ thì hành kinh khó khăn, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Trầm Sác.
Phân tích
- Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do âm hư: 5 tạng âm hư đều có thể xuất hiện Ngũ tâm phiền nhiệt, nhất là hay gặp âm hư ở 3 tạng Phế Tỳ Thận. Trong đó chứng Phế âm hư thường do bị “Phế lao” lâu ngày chữa không khỏi, Phế âm hao thương gây nên có triệu chứng: triều nhiệt xương nóng âm ỉ, mồ hôi trộm, khái thấu đoản hơi. Nặng hơn thì khạc ra huyết, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác. Điều trị theo phép tư âm dưỡng huyết, thanh nhiệt trừ nóng âm ỉ dùng phương
Tần giao miết giáp tán. Can Thận âm hư thì do mệt nhọc quá độ hoặc Can bệnh lâu ngày không khỏi hao huyết thương âm. Can âm đã hư, hỏa của Can Đởm thiên vượng có các chứng trạng: lòng bàn tay chân nóng. Tâm hung phiền nhiệt, miệng khát không muốn uống, ít ngủ, thân thể mỏi mệt, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Huyền Tế Sác. Điều trị theo phép tư âm dưỡng huyết thanh nhiệt dùng phương Thanh cốt tán gia vị. Thận âm hư có thể do âm hư ở các tạng khác liên lụy đến, tức như nói “Cuối cùng phải đến Thận”. Hoặc là do phòng sự không điều độ, buông thả quá mức, Thận tinh khuy tổn thì Thận âm cũng hư có các chứng trạng: ngũ tâm phiền nhiệt tai ù, di tinh, mồ hôi trộm. Lưng là phủ của Thận, Thận hư cho nên lưng gối mềm yếu, mạch Trầm Tế Sác, điều trị nên tư dưỡng Thận tinh thanh nhiệt trừ nung nấu dùng phương Tả quy hoàn gia Địa cốt bì, Bạch vi… Trên lâm sàng âm hư của 3 tạng Phế Can Thận thường đồng thời xuất hiện ảnh hưởng lẫn nhau, biện pháp chung là phải dưỡng âm thanh nhiệt, trừ phiền dùng Thanh cốt tán, tuỳ chứng mà gia giảm .
- Chứng ngũ tâm phiền nhiệt do huyết hư: Thường hình thành cả Can Tỳ đều hư, Tỳ là gốc của hậu thiên, phân tán tinh khí của ngũ cốc, hoá sinh ra khí huyết. Can là một tạng chứa huyết. Khi Can và Tỳ bị tổn thương, sự sinh huyết và chứa huyết mất chức năng dẫn đến huyết hư, bên ngoài thì không làm tươi tốt bì mao cho nên sắc mặt và da dẻ xanh nhợt. Can hoả thiên thịnh thì ngũ tâm phiền nhiệt không dâng lên để nuôi đầu, mắt làm cho đầu choáng, mặt đỏ bừng. Tâm huyết không đầy đủ cho nên hồi hộp chất lưỡi nhợt, mạch Tế Nhược. Can là “Cái gốc của bĩ cực”, Can hư không chịu nổi mệt nhọc cho nên hễ có chút mệt nhọc là sinh ra sốt nhẹ. Điều trị nên điều Can, lý Tỳ dùng phương Bổ Can thang gia Địa cốt bì…
- Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do tà khí ẩn náu ở âm phận: Phần nhiều do ngoại cảm, bỏ lỡ cơ hội điều trị hoặc chữa nhầm, dư tà lưu lại ẩn náu ở Doanh âm gây nên. Yếu điểm chẩn đoán phân biệt ở chỗ đêm nóng, sáng mát, nhiệt lui không ra mồ hôi, ăn được mà thể trạng vẫn gầy còm . Ban đêm thì Doanh khí chống với tà khí đạt ra ngoài dương phận nên phát nhiệt. Sáng sớm bệnh tà lại trở về âm phận chứ không rải ra ngoài cho nên nhiệt lui mà không mồ hôi. Dư tà lưu luyến lâu ngày Doanh âm tổn thương không làm đầy chắc cơ bắp cho nên thể trạng gầy còm. Sách Ôn bệnh điều biện nói: “Ban đêm đi vào âm phận mà nhiệt, ban ngày đi vào dương phận mà mát, như vậy có thể biết tà khí vào sâu âm phận, nhiệt lui mà không mồ hôi. Tà không ra biểu mà vẫn quay về âm phận lại càng biết rõ”. Điều trị theo phép tư âm thấu tà dùng phương Thanh cao Miết giáp thang.
- Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do hỏa uất: Phần nhiều do cơ chuyển không lợi, dương uất không đạt được hoặc ngoại tà chưa giải, dùng quá nhiều thuốc hàn lương, tà khí giá lạnh mai phục hoặc ăn quá nhiều đồ lạnh lấn át Vị dương không được điều tiết. Có chứng trạng vùng Tâm hung và lòng bàn chân tay nóng, tứ chi cũng nóng tiểu tiện đỏ, phiền táo dễ nóng giận, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác. Điều trị theo phép thanh Can tán hoá giải uất, dùng phương Hoả uất thang gia giảm. Nếu Vị dương bị thức lạnh chèn ép, dương khí không phân tán được, uất lại sinh nhiệt, có các chứng ngũ tâm phiền nhiệt, chân tay rã rời, phiền muộn không mồ hôi, điều trị theo phép thăng dương tán hoả dùng phương Thăng dương tán hoả thang.
Ngũ tâm phiền nhiệt do hỏa uất thuộc Thực chứng khác hẳn với loại Nội thương phát nhiệt do âm hư huyết hư. Trên lâm sàng cần nắm vững chứng trạng của Can uất hỏa nhiệt có chứng ngũ tâm phiền nhiệt kiêm cả tứ chi phát nhiệt, đầu trướng miệng đắng, tiểu tiện đỏ là có thể chẩn đoán phân biệt được.
Lòng bàn tay, bàn chân và vùng Tâm hung người ta thuộc lý, thuộc âm. Âm hư thì nhịêt từ trong sinh ra cho nên biểu hiện ngũ tâm phiền nhiệt. Nội nhiệt uất át không tiết ra ngoài được cho nên cảm thấy Tâm phiền. Trên lâm sàng tuy chứng lòng bàn tay bàn chân đồng thời phát nhiệt khá nhiều nhưng cũng không ít trường hợp lòng bàn tay nóng mà lòng bàn chân thì không nóng lắm hoặc lòng bàn chân nóng nhiều mà lòng bàn tay lại cảm thấy không nóng lắm. Phép điều trị cơ bản chủ yếu là lấy tư âm thanh nhiệt trừ phiền, không được mới thấy phiền nhiệt mà đã vội dùng các thuốc đắng lạnh, dùng bừa các thuốc thanh tiết.
Trích dẫn y văn
Chứng hư lao lý cấp hồi hộp đổ máu mũi, đau bụng, chân tay đau mỏi, tứ chi phiền nhiệt, họng khô miệng ráo, Tiểu Kiến trung thang chủ chữa bệnh ấy (Huyết tý hư lao bệnh mạch tính trị đệ lục – Kim quỹ yếu lược).
Bàn về chứng Tâm phiền nhiệt là do Thủ Thiếu âm kinh hữu dư gây nên. Nếu bất túc cũng có thể làm cho người ta hư phiền (Thánh tế tổng lục – quyển 43).