Lục vị hoàn (Lục vị địa hoàng hoàn, địa hoàng hoàn)
Thành phần Lục vị hoàn:
Thục địa 320g Phục linh 120g
Sơn dược 160g Trạch tả 120g
Sơn thù 160g Đan bì 120g
Cách dùng: Tán bột, làm hoàn nhỏ. Ngày uống 2 lần với muối nhạt, uống lúc bụng trống. Có thể dùng thang với liều thích hợp gọi là Lục vị địa hoàng thang.
Công dụng Lục vị hoàn: Tư bổ can thận.
Chủ trị: Lục vị hoàn chữa chứng can thận âm hư, hư hỏa bốc lên, lưng gối mỏi yếu, nhức trong xương, ngũ tâm phiền nhiệt, hoa mắt chóng mặt, ù tai, di tinh, ra mồ hôi trộm, họng đau, khô, khát, răng lung lay, lưỡi khô, đỏ, rêu ít. Mạch tế sác.
Phân tích Lục vị hoàn có Thục địa tư bổ thận âm, ích tinh tủy là quân. Sơn thù tư thận, ích can; Sơn dược tư thận ích tỳ, cộng lại ba âm cùng được bổ, cùng hiệu bổ thận trị gốc, đều là phó dược. Trạch tả phối ngũ với Thục địa mà tả thận giáng trọc; Đan bì phối ngũ với Sơn thù để tả can hỏa; Phục linh phối ngũ với Sơn dược mà thẩm thấp của tỳ. Ba vị tả sẽ ngăn ngừa sự nê trệ do các vị tư bổ gây nên có ý nghĩa là tá, sứ. Ba vị thuốc trên có tác dụng bổ, ba vị thuốc dưới có tác dụng tả nên phương thuốc vừa bổ âm, vừa giáng hỏa để chữa chứng âm hư sinh nội nhiệt.
Gia giảm:
Phế nhiệt mà phiền gia Mạch môn 8g.
Tâm nhiệt mà táo gia Huyền sâm 8g.
Tỳ nhiệt hay đói gia Thược dược 8 g.
Cốt chưng triều nhiệt, ra mồ hôi nhiều gia Địa cốt bì 8g.
Huyết nhiệt vọng động Thêm Sinh địa 8 – 12g.
Thượng thực hạ hư gia Ngưu tất 8g.
Huyết hư mà táo trệ gia Đương quy 8g.
Tri bá địa hoàng hoàn: Do bài Lục vị gia Thêm Tri mẫu, Hoàng bá tác dụng tư âm giỏng hỏa mạnh hơn, chữa cốt chưng triều nhiệt, ra mồ hôi trộm.
Kỷ Cúc địa hoàng hoàn: Do bài Lục vị gia Thêm Kỷ tử, Cúc hoa chữa quáng gà, giảm thị lực do can thận hư.
Bát tiên hoàn: Do bài Lục vị gia Thêm Ngũ vị tử, Mạch môn chữa phế thận âm hư, ho khan, ho ra máu, triều nhiệt, ra mồ hụi trộm. Bài này cũng có tên gọi là Bát tiên trường thọ hoàn. Chủ trị thận hư gây ho suyễn nhiều.
Nghiên cứu Dược lý
Lục vị địa hoàng hoàn có tác dụng rõ rệt tăng cường miễn dịch, chống lão hoá, chống mệt mỏi, nâng cao khả năng chịu đựng trong môi trường nhiệt độ thấp và thiếu dưỡng khí, hạ mỡ máu, hạ đường máu, hạ huyết áp, cải thiện chức năng thận, thúc đẩy trao đổi chất và nâng cao thể trạng.
1, Tác dụng chống mệt mỏi, nâng cao khả năng chịu đựng trong môi trường nhiệt độ thấp và thiếu dưỡng khí tương tự như của Nhân Sâm
2, Ảnh hưởng đến công năng miễn dịch: có thể kích hoạt tế bào miễn dịch và kháng thể tạo ra phản ứng, nâng cao công năng của tế bào miễn dịch, thúc đẩy tế bào amidan dụ sinh interferon, nâng cao nồng độ interferon trong huyết thanh.
3, Giãn mạch: có tác dụng hạ áp rõ rệt đối với Tăng huyết áp do hẹp động mạch, và cải thiện chức năng thận.
4, Giảm lắng đọng collagen ở cơ tim, phòng trị những tổn hại mạch máu do cao huyết áp gây ra.
5, Cải thiện lưu biến tính của máu; giảm độ quánh của máu, huyết tương và fibrinogen; ức chế hình thành gốc tự do trong nhồi máu cơ tim, giảm nhỏ diện tích vùng nhồi máu; phòng trị bệnh mạch vành và nhồi máu cơ tim.
6, Ảnh hưởng tới mỡ máu: làm giảm rõ rệt nồng độ cholesterol, triglyceride, phospholipid; nâng cao giá trị tỷ lệ HDL-C/TC, thúc đẩy trao đổi mỡ, sử dụng thường xuyên có tác dụng phòng chống xơ vữa động mạch.
7, Cải thiện rối loạn công năng hệ thần kinh thự vật.
8, Cải thiện sự tắc nghẽn của tuyến sinh sản, thông qua tác dụng tới hệ trục dưới đồi, tuyến yên, buồng trứng, giúp cải thiện tiết hormon sinh sản, thúc đẩy sự sinh thành của tinh trùng, tăng hoạt suất của tinh trùng, nâng cao khả năng sinh lý.
9, Thúc đẩy bài tiết ure máu, bảo vệ chức năng lọc của thận.
10, Tác dụng bảo vệ gan: không ảnh hưởng rõ rệt đối với hoạt tính ALT thông thường, nhưng có tác dụng giảm rõ rệt sự tăng cao hoạt tính ALT do CO4, Thioacetamide, Prednisolone gây ra.
11, Gia tăng thể trọng của chuột, tăng cường sức lực, kéo dài thời gian bơi, làm cho limphoidenodule trong lách động vật bị ung thư do chịu tác động của hoá chất phát sinh mạnh mẽ.
12, Tăng cường hoạt tính thực bào của hệ đơn nhân thực bào, nâng cao thời gian tồn tại, nâng cao cAMP trong tế bào U14 của thể ung thư cổ tử cung, nâng cao hiệu suất ức chế tăng sản tế bào ung thư.
13, Có thể ức chế hiệu suất gây ra ung thư của ethyl carbamate , nitrosamine.
14, Tác dụng đối với chứng tăng sinh tế bào thượng bì thực quản: có tác dụng cắt đứt khả năng gây ung thư, dự phòng phát sinh ung thư thực quản, giảm tỉ lệ phát bệnh.
15, Vị thuốc Trạch tả trong Lục vị địa hoàng hoàn có chứa hàm lượng kẽm cao, Sơn thù du có hàm lượng nhôm cao, có tác dụng phòng bệnh tiểu đường và xơ vữa động mạch, cho nên Lục vị địa hoàng hoàn có tác dụng nhất định trong chống lão hoá và suy giảm sinh lý sớm.
16, Làm cho sự trao đổi đường của hồng cầu phục hồi bình thường.
17, Chống tác dụng phụ của thuốc hoá chất, kéo dài tỷ lệ sinh tồn, bảo vệ công năng của hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu; phòng chống tổn hại công năng của tim, gan, thận; bảo vệ hoạt tính của tế bào NK; tăng công năng chuyển hoá của tế bào lympho T,B.
Ứng dụng lâm sàng: Lục vị hoàn chữa suy nhược thần kinh, lao phổi, đái đường, Basedow, lao thận, cao huyết áp, rong huyết thể can thận âm hư.
LỤC VỊ ĐỊA HOÀNG HOÀN
« Tiểu nhi dược chứng trực quyết »
Thành phần:
- Thục địa 8 lạng
- Đan bì 3 lạng
- Sơn thù 4 lạng
- Trạch tả 3 lạng
- Sơn dược 4 lạng
- Phục linh 3 lạng
Cách dùng: Liều lượng nói trên dùng làm thuốc hoàn, luyện với mật làm hoàn, hiệu thuốc có bán thuốc chế sẵn, ngày dùng 8-16 gam, chia 2 lần uống với nước muối nhạt. Trong lâm sàng cũng dùng làm thuốc thang, đun sắc chia 2 lần uống.
Công dụng: Tư bổ âm của can thận.
Chữa chứng bệnh: Trong quá trình mắc bệnh mạn tính thấy can thận bất túc, thận âm khuy tổn, lưng đầu gối đau thắt, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt. Hiện nay trong lâm sàng thấy triệu chứng can thận âm hư như đường tiết niệu cảm nhiễm mạn tính, nước đái đường, huyết áp cao và thần kinh suy nhược thường lấy bài thuốc này làm cơ sở rồi gia giảm thêm.
Giải bài thuốc: Đặc điểm tạo thành bài thuốc này là bổ trung ngẫu tả mà bổ âm là chính. Dùng Thục địa để tư âm bổ thận, thêm tinh tích tủy mà sinh huyết, Sơn thù ôn bổ can thận, thu sáp tinh khí, Sơn dược kiện tỳ kiêm trị di tinh, di niệu là “Tam bổ” trong bài thuốc, nhưng lấy Thục địa bổ thận làm chính; Sơn thù bổ can, Sơn dược bổ thận làm phụ nên liều lượng Thục địa gấp đôi vị kia. Đan bì lương huyết thanh nhiệt mà tả hỏa ở can thận. Trạch tả, Phục linh lợi thủy thấm thấp là “Tam tả” của bài thuốc này. Do bài thuốc này bổ là chính nên liều lượng các vị thuốc tả dùng ít thôi. Nhưng liều lượng các vị thuốc không phải nguyên xi không thay đổi, có thể căn cứ thực tế lâm sàng mà biến hóa. Nếu dùng để ích thận âm, có thể theo liều lượng định sẵn là được không cần thay đổi, nếu chữa di tinh, đầu váng, nên tăng thêm liều lượng Sơn thù và Sơn dược, nếu âm hư kèm thêm huyết nhiệt hỏa vượng thì tăng thêm liều lượng Đan bì, đổi Thục địa thành Sinh địa, nếu thận hư phù thũng nước hoặc bị thấp nhiệt, tiểu tiện đau rát thì gia nhiều Trạch tả, Phục linh.
Cách gia giảm: Bài này là phương thuốc cơ sở của bổ thận tư âm, trong lâm sàng thấy triệu chứng âm hư, thường dùng bài này gia giảm thêm. Nếu thấy triệu chứng can huyết hư thì gia thêm Đương quy, Bạch thược (tức Quy thược địa hoàng hoàn) để dưỡng huyết nhu can, nếu kèm theo phế thận khí hư, ho thở mạnh thì gia thêm Ngũ vị (tức Thất vị đô khí hoàn) hoặc gia thêm Mạch môn (tức Mạch vị độc khí địa hoàng hoàn) để liễm phế nạp thận v.v… Một vài vị thuốc có công dụng tương tự có thể thay thế như Thủ ô thay được Địa hoàng, Ngũ vị, Câu kỷ tử, Thỏ ti tử tùy theo bệnh tình có thể thay thế Sơn thù. Tóm lại, ứng dụng bài này có thể phỏng theo cách chữa mà thay đổi vị thuốc.
Phụ phương:
1. Tri bá địa hoàng hoàn:
Lại có tên “Tri bá bát vị hoàn” tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Tri mẫu, Hoàng bá mỗi vị 2 lạng. Có tác dụng tư âm tả hỏa, thích hợp với các chứng âm hư hỏa vượng, xương nhức ra mồ hôi trộm,
họng đau, thăng hỏa, miệng khô lưỡi táo, hiện nay các chứng đi đái ra máu cấp tính, cảm nhiễm đường tiết niệu mạn tính thường dùng bài thuốc này gia giảm điều huyết, chứng sau có thể phối hợp các vị thanh nhiệt giải độc và thủy thông lâm.
Liều lượng giống với Lục vị địa hoàng hoàn.
2. Kỹ cúc địa vị hoàng hoàn:
Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Câu kỷ tử, Bạch cúc hoa mỗi thứ 3 lạng.
Trị can thận bất túc, đầu váng mắt hoa, thị lực giảm sút. Chữa bệnh huyết áp cao lúc thấy âm hư dương bốc cũng dùng bài này điều trị.
Liều lượng thuốc hoàn giống với Lục vị địa hoàng hoàn.
3. Minh mục địa hoàng hoàn:
Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Đương quy, Bạch thược, Câu kỷ tử, Cúc hoa, Bạch tật lê, Thạch quyết minh.
Tác dụng sáng mắt, tư bổ can thận, tiêu tán phong nhiệt, chữa các chứng trong mắt khô, quáng gà, nhìn vật thể lờ mờ. Với bệnh huyết áp cao thấy triệu chứng âm hư dương bốc, cũng dùng được.
Liều lượng thuốc hoàn giống với Lục địa hoàng hoàn.
4. Đại bổ nguyên tiễn:
Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” bỏ Phục linh, Trạch tả, Mẫu đơn gia Cẩu kỷ, Đỗ trọng, Đảng sâm, Chích cam thảo, Đương quy.
Do bài thuốc này giảm đi “Tam tả” của Lục vị địa hoàng hoàn mà gia thêm Đậu kỹ, Đỗ trọng để bổ ích can thận; Đảng sâm, Cam thảo để bổ khí; Đương quy bổ huyết, bổ lực so với Lục vị địa hoàng hoàn thì mạnh hơn, thích hợp với chứng thận hư mà vô nội nhiệt và đàm thấp.
Bài thuốc Lục Vị Hoàn (Roku Mi Gan) trong 206 bài thuốc Đông y Nhật bản
(đái khó, đái rắt, phù thũng và ngứa)
Thành phần và phân lượng:
1. Thang: Địa hoàng 5-6g, Sơn thù du 3g, Sơn dược 3g, Trạch tả 3g, Phục linh 3g, Mẫu đơn bì 3g.
2. Tán: Địa hoàng 6-8g, Sơn thù du 3-4g, Sơn dược 3-4g, Trạch tả 3g, Phục linh 3g, Mẫu đơn bì 3g.
Cách dùng và lượng dùng:
1. Thang: Có thể sắc uống như Bát vị địa hoàng thang.
2. Tán: Dùng mật ong luyện thành hoàn, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2g.
Công dụng: Trị các chứng đái khó, đái rắt, phù thũng và ngứa ở những người dễ mệt mỏi, lượng tiểu tiện giảm hoặc đái rắt, đôi khi miệng khát.
Giải thích: Theo sách Tiểu nhi trực quyết: Thuốc này còn có tên là Lục vị địa hoàng hoàn. Các triệu chứng của bài thuốc này lấy triệu chứng của bài Bát vị hoàn làm tiêu chuẩn, song nó được bốc cho những người khó xác định đó là âm chứng và không dùng được Phụ tử. Do đó bài thuốc này là bài Bát vị hoàn bỏ các vị Quế chi, Phụ tử. Những người ǎn uống không ngon miệng và có chiều hướng ỉa chảy tuyệt đối không được dùng bài thuốc này.
Theo Giải thích các bài thuốc hậu thế: Bài thuốc này dùng cho những người sức khỏe yếu, sinh lý suy nhược, liệt dương, di tinh, ù tai, những người bước sang tuổi già, lưng đau, mắt mỏi và thị lực giảm sút. Bài thuốc này cũng có thể dùng dưới dạng sắc uống như Bát vị địa hoàng thang. Trong trường hợp khó phân biệt nên dùng bài thuốc này hay Bát vị hoàn bỏ Phụ tử mà thêm Hoàng bá.
Theo Liệu pháp đông y thực dụng: Thuốc dùng cho những người dễ bị mệt, vai dễ mỏi, đôi khi bị chóng mặt, nặng đầu, có cảm giác bải hoải ở vùng từ thắt lưng trở xuống, đầu gối dễ bị trẹo, đêm đi tiểu nhiều lần và mỗi lần tiểu tiện thường lại muốn uống nước, dùng tay nắn phía trên và dưới rốn người ta thấy cơ bụng phía dưới rốn yếu hơn ở phía trên rốn rất nhiều. Những người bị các chứng như vậy thì bài thuốc này rất hiệu nghiệm.
Tham khảo
?️??”Lục vị địa hoàng hoàn” có tên gốc là “Địa hoàng hoàn”, được ghi chép trong cuốn (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết) của Tiền Ất, nó được biến giải từ bài Kim Quỹ thận khí hoàn bớt đi 2 vị Quế chi, Phụ tử mà thành. Từ khi xuất hiện, Lục vị và Bát vị đã trở thành lưỡng đại pháp môn để bổ thận âm và bổ thận dương. Quả thực, Lục vị và Bát vị dùng trên lâm sàng linh nghiệm vô cùng, nó đã chứng thực được đề xướng lý luận: “ích hoả chi nguyên dĩ tiêu âm ế, tráng thuỷ chi chủ dĩ chế dương quang” của danh y Vương Băng thời Đường.
⌛️Trải qua nhiều đời, Lục vị địa hoàng hoàn biến chuyển vô cùng, ứng dụng cũng rất phong phú. Như Kỷ cúc địa hoàng hoàn chủ trị can thận âm hư, Mạch vị địa hoàng hoàn chủ trị phế thận âm hư, Tri bá địa hoàng hoàn chủ trị âm hư hoả vượng,… đây đều là những danh phương thường dụng trên lâm sàng.
? Lục vị địa hoàng hoàn đúng là một phương thuốc rất hay, có bổ có tả, lấy bổ làm chính, tương phản tương thành, bổ thận tư âm, điền tinh ích tuỷ, công hiệu tuyệt vời. Theo kinh nghiệm của tôi, Lục vị và Bát vị được sử dụng nhiều hơn cả; còn Tả quy ẩm và Hữu quy ẩm của Trương Cảnh Nhạc dùng rất ít, cho dù nó là phương thuốc tốt, trị chứng hư tổn nặng mà công năng tỳ vị vẫn có thể tiếp nhận được thuốc.
➡️ Dưới đây xin được chia sẻ vài kinh nghiệm vận dụng Lục vị trên lâm sàng, mong các bạn tham khảo.☘
☘+ Lý thị lao phổi, thể chất âm hư hoả vượng, mất ngủ nhiều năm, điều trị nhiều loại thuốc, ở các viện không đỡ. Tứ chẩn: người gầy như mo, sắc mặt trắng, má ửng hồng, sắc môi hồng, tối ngủ 1-2 tiếng, tâm phiền bất an, hai lòng bàn tay nóng, lưỡi đỏ, gầy, ít rêu, mạch tế, sác, vô lực, hai xích đều yếu. Luận trị: âm tổn đến dương, khí âm lưỡng hư, âm dương bất điều, dương khí phù việt, đêm không giao với âm làm mất ngủ. Pháp: ích khí dưỡng âm. Phương: Lục vị gia Cao ly sâm 9g (sắc riêng). 3 thang bệnh lùi. Sau có người nói đã mất ngủ sao lại dùng Nhân sâm? Vì là mất ngủ đã lâu, tổn hại nguyên khí, nếu chỉ dùng Lục vị dưỡng âm, mà không bổ nguyên khí, thì âm dương sao quân bình được?
☘+ Nam thanh họ Phùng, cưới vợ đã lâu, sinh lý kém, chưa có con, quan sát thấy vóc dáng to cao, sức lực hơn người, sắc diện bình thưởng, lưỡi mềm bệu, mạch hư đại. (Kim Quỹ Yếu Lược) viết: “phu nam tử bình nhân, mạch đại vi lao, cực hư diệc vi lao” ~ có nghĩa là: nam nhân sắc diện, dáng vóc như người thường, mạch đáng thung dung tự tại, bình đều ba bộ, nay mạch lại lớn mà hư, không ứng thể trạng vốn có, nên thuộc chứng hư lao. Pháp: bình điều âm dương, tiềm dương nhiếp nạp, tư âm dưỡng khí. Phương: Quế chi long cốt mẫu lệ thang gia Hoàng kỳ 30g, uống nửa tháng mạch đỡ lớn, mạch xích nhỏ, nên chuyển dùng Lục vị gia Đảng sâm 30g, ích khí dưỡng thận âm. Sau nửa năm kiên trì, sinh lực sung mãn, không lâu sau có con.
☘+ Bệnh nhi 7 tuổi, hen suyễn, ho, khó thở hai ngày liên tục, bác sỹ tây y dùng đủ mọi cách đều vô hiệu. Chẩn: sắc mặt còn nhuận, môi hồng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác, hai xích đều yếu, chứng này do thận âm khuy hao, thận không nạp khí gây ra. Phương dùng Lục vị gia Tắc kè 1 con (9g), bổ phế khí dưỡng thận âm, định khái suyễn, 1 thang mà bệnh lui. Có thể nói Tắc kè có tác dụng trị hen suyễn. Bệnh này có người dùng Tắc kè sống 1 đôi (làm sạch, bỏ nội tạng) ngâm rượu uống mà hết. Hen suyễn có thể chữa khỏi, quan trọng là điều trị gốc bệnh, nhưng vấn đề này giải quyết không hề dễ.
⚡️Bệnh hen suyễn có nguyên nhân do dị ứng gây ra, theo quan sát nhiều năm, nhiều bệnh nhân do nằm chiếu trúc, chiếu cói bị lạnh mà ảnh hưởng, mùa hè cũng lên cơn hen. Do vậy cũng phải chú ý đến vấn đề này.
?️ Não, tuỷ và thận. Những năm gần đây nhiều y gia đề xướng lý luận: “Não chủ thần minh”, xét về tranh luận, làm mới Trung y là tốt; nhưng về lập luận và tính hệ thống là sai, như thế hoàn toàn vứt bỏ học thuyết tạng tượng rồi. “Tâm chủ thần minh, lục phủ ngũ tạng chi đại chủ, thần minh xuất yên”, tâm chủ huyết mạch, vận huyết để dưỡng não tuỷ, mà não tuỷ là sự tinh minh của toàn thân, nên theo Trung y chỉ có thể nói sinh lý và công năng chung của não khái quát bởi tâm, liên quan chung đến ngũ tạng, mà chủ yếu là với thận. Do thận chủ tàng tinh, tinh sinh tuỷ, tuỷ tụ vu não; thận tinh dồi dào, não hải được dưỡng, phát triển kiện toàn, thì tinh lực dồi dào, tai tính mắt trong, tư duy mẫn cảm, động tác nhanh nhẹn. Nếu thận tinh khuy hao, não tuỷ bất túc, thì chóng mặt, ù tai, hay quên, sa sút trí tuệ, thậm chí đần độn,… Dưới đây là vài vận dụng lâm sàng nói về hệ trục não – tuỷ – thận trong Trung y:
☘+ Học sinh lớp 2, trí tuệ kém, thành tích không tốt, thường xuyên phải phụ đạo mà kết quả không hơn, tiến hành chẩn trị, cho dùng lục vị hoàn, ngày 10g sắc uống cả bã, sau nửa năm trí tuệ phát triển, học tập tiến bộ.
☘+ Trẻ 2 tuổi chậm nói, gọi hai tiếng ba, mẹ cũng không rõ, dáng hình gầy nhỏ, đi phải có người đỡ, lưỡi mềm nhạt, chỉ tay nhạt, mạch hư. Sau chẩn cho dùng Địa hoàng ẩm gia giảm, ích bổ thận tinh, sau nửa tháng triệu chứng cải thiện.
☘+ Hay như trẻ chậm mọc răng, người già viêm nha chu,… nếu biện chứng thận âm hư, dùng Lục vị hiệu dụng rất tốt. (Thận chủ cốt, răng là phần dư của cốt)
☯ Có thể nói, Lục vị địa hoàng hoàn có tính ứng dụng lớn, nhưng phải biện chứng luận trị, không được dùng bừa. Trần Tu Viên trong cuốn (Y Học Thực Tại Dịch) có viết về chuyện này: có những bệnh nhỏ, lẽ không nên dùng thuốc, nhưng vì quá ưa dùng bổ pháp, y lệnh thuốc tốt, như Lục vị địa hoàng hoàn, Bát tiên trường thọ hoàn, a giao, hải sâm, hay Quy ty hoàn, Tiêu giao tán gia thêm Địa hoàng,… bồi bổ nê trệ dài ngày, ích lợi chẳng có mà tai hại vô cùng. Tráng thuỷ thái quá, bổ không thấy mà thuỷ tà ngạo mạn mãn thiên, đờm dãi vô kể, thổ, tả, suyễn,…không có gì làm lạ, khi bệnh đã phát thì khó lòng điều trị. Nên dùng Thông mạch tứ nghịch thang gia giảm, hoặc Truật phụ thang gia nước cốt gừng, hay gia thêm Phục linh vào cả hai bài trên để cứu vãn.